Baivanhay Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài thơ Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Baivanhay Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài thơ Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Xuân Vũ
Xuân Vũ
  • Thành Viên 19
Đất nước là một đề tài muôn thưở trong thơ ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước được khắc tạc muôn hình với nhiều vẻ đẹp khác nhau từ đa dạng góc nhìn. Tố Hữu tìm thấy hình hài đất nước qua bóng dáng người anh hùng, người mẹ; Chế Lan Viên “tìm hình của nước” trong vị cha già Hồ Chí Minh kính yêu; Nguyễn Trãi lại tự hào về triều đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”,... Còn đối với Nguyễn Khoa Điềm vẻ đẹp của đất nước lại nằm trong chiều sâu văn hóa, phong tục mang đậm dấu ấn tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Đó cũng chính là nét mới trong cách xây dựng hình tượng đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm hướng tới trong tác phẩm “Đất Nước”.

✅ Phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm (dàn ý + 5 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐.png

Đất Nước. Ảnh Pinterest.

Đề: Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài thơ Đất Nước


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...

Hướng dẫn phân tích chi tiết:
Bài làm cần phải đảm bảo đủ 4 luận điểm chính sau đây:

1. Câu thơ mở đầu, nhà thơ đã hồi đáp cho câu hỏi “Đất Nước có tự bao giờ? ” bằng cách khẳng định:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”

- Đất nước có từ bao giờ? Đất nước bắt đầu từ đâu? - Nguồn gốc của Đất Nước vẫn luôn là một dấu hỏi lớn thử thách những nhà khoa học, lịch sử học, khảo cổ học. Không ai trong chúng ta biết được đất nước có từ bao giờ hay ai là người khởi thủy ra nó. Song, luôn tồn tại một sự thật hiển nhiên rằng: khi ta lớn lên thì “đất nước đã có rồi”.

- Nhà thơ khẳng định sự hình thành đất nước qua ba chữ “đã có rồi” khiến hình ảnh đất nước hiện lên sừng sững trước mắt người đọc. Theo Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác”. Nhà thơ tự hào, khẳng định sự lâu đời, trường tồn vĩnh hằng của đất nước “Từ vũ trụ đã có giang san” (Trương Hán Siêu), cách diễn đạt ấy còn mang đến ý niệm: Đất Nước là nguồn cội thiêng liêng, là máu thịt của mỗi con người.

- Hai chữ “Đất Nước” vang lên khẳng khái trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Không riêng gì câu thơ mà xuyên suốt cả tác phẩm hai chữ “Đất Nước” đều được viết hoa. Bàn về vấn đề này Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ rằng với ông đất nước không đơn thuần là vùng đất vô tri mà đó là một nhân vật, là sinh thể có linh hồn và với cách viết này nhà thơ mới có thể bộc lộ hết nỗi niềm trân trọng với đất nước thiêng liêng.

- Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về yếu tố chính luận nhưng lại mang giọng điệu trữ tình qua cách xưng hô “ta” đầy thắm thiết. “Ta” ở đây vừa là nhân vật trữ tình vừa là chúng ta bao hàm cho cả dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô đã khiến cho vấn đề mang tính trừu tượng, lớn lao như đất nước trở nên thân thuộc, gần gũi. Lời thơ mở đầu thật giản dị mà trang trọng, tự hào biết bao.

2. Ba câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục, truyền thống.

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Điệp ngữ “Đất Nước” nhắc lại liên tiếp trong ba dòng thơ vừa thiêng liêng, trang trọng vừa tạo nên nhạc tính ngân nga, chất chính luận, trữ tình chắp cánh thăng hoa bay bổng diệu kỳ. Từ điệp ngữ này tác giả mở ra chiều sâu văn hóa, phong tục, truyền thống.

a. Đầu tiên nhà thơ đã sử dụng chất liệu dân gian để diễn tả sự ra đời của đất nước: đất nước có trong truyện cổ.
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” như tấm vé thông hành, như con đò đưa ta quay về vùng đất tuổi thơ, làm sống dậy những kỉ niệm đẹp. Nơi đó có hình ảnh cô Tấm dịu hiền, có chàng Thạch Sanh dũng cảm, những ông bụt bà tiên với phép màu kì diệu sẵn sàng cứu giúp những con người lương thiện,... Những câu chuyện ấy như dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng tới những vẻ đẹp “chân- thiện- mĩ” trân quý, để con người ta biết tin vào cái thiện, thêm yêu quê hương đất nước. Bởi truyện cổ nước ta hay lắm, nhân văn lắm mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động viết lên những vần thơ thật đẹp:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”​

Nhắc tới “ngày xửa ngày xưa” còn là nhắc tới cách lí giải hồn nhiên của nhân dân về sự hình thành và phát triển đất nước, về quá trình dựng nước và giữ nước. Vì “ngày xửa ngày xưa” là một trạng từ chỉ thời gian vô định, đâu ai biết được đó là ngày hôm nào, là năm bao nhiêu, điều duy nhất chúng ta biết là nó đã có từ rất lâu. Và đất nước có từ trong những câu chuyện xa xưa ấy nghĩa là đất nước còn xuất hiện từ xa hơn, lâu hơn. Qua đó nhà thơ thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống ông cha, về bề dày lịch sử, về kho tàng văn học văn hóa dân gian đặc sắc.

b. Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa”, Đất Nước trong Nguyễn Khoa Điềm còn được xác định qua một nét sống giản dị mà đậm đà bản sắc dân tộc của những bà, những mẹ với phong tục ăn trầu:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức câu thơ có vẻ phi lý nhưng lại cực kỳ hợp lý khi xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao đều được bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Hình ảnh “miếng trầu” gợi nhắc về “Sự tích trầu cau” – một câu chuyện nhân văn về tình yêu đôi lứa và tình anh em keo sơn, được xem là câu chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Hai chữ “bây giờ’ chỉ thời điểm hiện tại, cũng là cách lí giải thật bình dị: Lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống không chỉ hiện diện trong chiều dài lịch sử mà cho đến tận bây giờ vẫn còn “miếng trầu bây giờ bà ăn”.

Trải qua thời gian đằng đẵng, miếng trầu không chỉ mang giá trị vật chất mà còn trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Đối với tuổi trẻ miếng trầu là biểu tượng cho tình yêu: giao duyên, miếng trầu cưới hỏi ... Đối với người già miếng trầu là biểu tượng của nghĩa tình. Và hơn thế nữa miếng trầu còn là nhịp cầu giao cảm giữa cháu con và cha ông, là biểu tượng tâm linh để hậu nhân bày tỏ tấm lòng thành kính với bậc tiền nhân. Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:

“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
(Hoàng Cầm)​

c. Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc​

Một đất nước không thể thiếu đi những truyền thống mà một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước như Bác từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.” Đến với thơ Nguyễn Khoa Điềm truyền thống ấy được gợi nhắc qua hình ảnh cây tre và truyền thuyết Thánh Gióng. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như:

“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
(Nguyễn Duy)​

Hình ảnh cây tre song hành cùng thời gian, cùng con người Việt Nam trải qua bao thăng trầm từ thuở xa xưa đến nay. Dân tộc Việt Nam tự hào khi mang những phẩm chất đẹp như tre: giàu sức sống, thật thà, chất phác, bất khuất, kiên trung,... Cây tre ấy cũng gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường đánh đuổi giặc Ân khỏi bờ cõi Việt:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân”
(Tố Hữu)​

Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng của tuổi trẻ Việt Nam khỏe khoắn, kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái con trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này, truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết quản ấm nóng cuộn trào trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Hai chữ “lớn lên” là cách nói gợi hình về quá trình trưởng thành của đất nước và hình ảnh Thánh Gióng lớn vụt lớn lên, là biểu tượng cho một dân tộc bé nhỏ nhưng rất đỗi anh hùng. Đất nước kì vĩ, tráng lệ, lãng mạn, hào hùng đã được tái hiện như vậy đấy!

3. Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mĩ tục dân tộc Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

a. Đầu tiên là nếp sống giản dị trong đời sống người phụ nữ Việt Nam với phong tục búi tóc sau đầu

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Phong tục này bắt nguồn từ công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc thành búi sau gáy cho gọn gàng. Trải qua một thời gian dài, điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp mộc mạc, nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”​
b. Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy, sắt son:

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Lối sống coi trọng nghĩa tình, sống ân nghĩa thủy chung là vẻ đẹp truyền thống ngàn đời của dân tộc. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”​

Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Gừng càng già càng cay, muối càng để lâu càng mặn, vợ chồng sống với nhau càng lâu thì nghĩa tình càng đong đầy. Qua gian nan, cơ cực tình nghĩa vợ chồng gắn bó càng thêm sâu sắc, khăng khít, bền chặt. Có lẽ vì vậy mà đất nước đã ghi lại dấu ấn của cha, của mẹ bằng “Hòn Trống Mái”, “núi Vọng Phu”,... như một cách riêng để khẳng định nghĩa tình son sắt ấy, là suối nguồn yêu thương chảy qua bao thế hệ.

c. Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động để sinh tồn

Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Câu thơ gợi nhắc truyền thống dựng nhà “kèo-cột” -một đặc trưng văn hóa Việt. Cái kèo có dạng tam giác cân là hệ thống gỗ kết nối các đầu cột để đỡ hai mái dốc. Cột đẩy mái nhà lên cao còn kèo giữ chặt các cột lại với nhau tạo sự vững chãi cho căn nhà. Và từ ngôi nhà “kèo cột” ấy ngôn ngữ dân gian được hình thành thông qua cách lấy tên các vật dụng đơn giản đặt tên con với quan niệm tên càng xấu càng dễ nuôi. Những quan niệm gần gũi ấy là thành tố cấu tạo nên “Đất Nước”.

Hơn thế là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó, gắn với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp- nghề trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khuyên răn:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”​

Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ lao động của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.

4. Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:

Đất Nước có từ ngày đó

“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Không ai biết chính xác ngày đó là ngày nào chỉ biết rất rõ một điều đó là ngày có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những thuần phong mỹ tục, là ngày dân ta có truyền thống đánh giặc giữ nước, có tập quán làm nhà kèo cột và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ ngàn đời. Tất cả đều là những biểu hiện cao đẹp của bề dày văn hóa. Mà văn hóa truyền thống lại là hiện thân của chiều sâu đất nước. Đúng như nhân xét của tác giả Huy Văn: “Nếu như trong thơ Nguyễn Đình Thi, hình ảnh đất nước hào hoa, kiêu hãnh, lãng mạn và tràn tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước lại giàu có về văn hóa, là sức mạnh của chân lý”.

“Đất Nước” là một chương thơ hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm mà cũng là đoạn thơ hay nhất viết về đề tài Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. “Đất Nước” không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn qua đó nói lên được tiếng nói của người công dân yêu nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt “như máu xương của mình”. Từ gợi ý trên các bạn hãy thử luyện tập bằng cách viết một bài văn hoàn chỉnh ngay nhé.
 
Từ khóa
văn 12 đất nước của nguyễn khoa điềm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
3K
1
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top