Cảm nhận về đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và nhận xét về cảm hứng lãng mạn của đoạn thơ ấy

Cảm nhận về đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và nhận xét về cảm hứng lãng mạn của đoạn thơ ấy

ĐỀ BÀI:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr.88)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về cảm hứng lãng mạn được thể hiện trong đoạn thơ.

BÀI LÀM


Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông.


(Giang Nam)
Những vần thơ của Giang Nam cứ vương vấn trong tâm trí tôi, vang vọng về một thời chiến tranh oanh liệt. Nói về chiến tranh, quả thực không biết có thể dùng từ ngữ nào để miêu tả hậu quả khốc liệt của nó, thế nhưng trên bức phông nền dữ dội và đau thương kia lại là ánh hào quang rực rỡ của người lính. Khác với Đồng chí của Chính Hữu – người lính ra đi cứu nước vì lí tưởng chung, hay Nhớ của Hồng Nguyên – một “kịch bản phân cảnh” kể về cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đến với Tây Tiến của Quang Dũng, cũng là bối cảnh của cuộc kháng chiến chống Pháp, ấy vậy mà ta được chiêm ngưỡng “bức tượng đài bất tử về người lính vô danh” đầy khí phách và mới mẻ; đậm chất hào hoa, mộng mơ của tuổi mười tám đôi mươi nơi những người chiến sĩ trẻ, mang tên”lính Tây Tiến", “đặt chơi vơi giữa ngàn non, ngàn mây, ngàn cây Tây Bắc".

Quang Dũng được biết đến với cái tên là nhà thơ của “mây trắng xứ Đoài”. Ông là một trong những người nghệ sĩ đa tài của thơ ca Việt Nam: biết làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Ở bất cứ lĩnh vực nào cũng hết sức tài hoa. Thơ Quang Dũng mang vẻ đẹp phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tất cả được gói gọn trong hai chữ “hào hoa” – cốt cách con người cũng như chất thơ văn của Quang Dũng. Bởi lẽ đó, nhà thơ Vân Long đã có nhận xét rất hay về Quang Dũng: “Nhà thơ Quang Dũng như "bóng mây qua đỉnh Việt" và là một áng mây bay qua sông núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Trong sự nghiệp sáng tác của thi sĩ xứ Đoài ấy, có lẽ Tây Tiến đã trở thành một thi phẩm hùng tráng không thể mờ nhòa theo dấu ấn của thời gian khắc nghiệt. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, in trong tập “Mây đầu ô”( 1986), tại làng Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời quân đoàn cũ và chuyển sang đơn vị mới. Ban đầu bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng sau này được đổi thành “Tây Tiến” bởi theo thi sĩ nỗi nhớ ấy quá da diết, khắc khoải không cần nói nhớ mà vẫn thấy nhớ-nỗi nhớ bao trùm khắp không gian và thời gian. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ về hình ảnh những người lính “vào sinh ra tử”, mà Quang Dũng còn dành trọn một góc để nhớ về thiên nhiên hoang sơ Tây Bắc.

Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, nhiệm vụ của họ là tiến về phía Tây của Tổ quốc phối hợp với bộ đội Lào để đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ vùng biên giới Việt – Lào. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất rộng: Gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình và Sầm Nưa (Lào), gồm toàn bộ khu rừng già phía Tây của Tổ quốc hoang vu, hiểm trở và khắc nghiệt. Lực lượng chủ yếu của lính Tây Tiến là học sinh, sinh viên trí thức, thanh niên Hà Nội. Họ là những cô tú, cậu tú bước vào chiến trường mà đầu óc vẫn còn vương vấn mùi sách vở. Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn gian khổ về vật chất, căn bệnh sốt rét rừng hoành hành khiến vô số người lính phải ngã xuống nhưng tinh thần của họ vẫn luôn lạc quan và tràn đầy hi vọng, niềm tin yêu đời. Trong Vẻ đẹp văn học Cách mạng, Đinh Minh Hằng nhận định: “… Tây Tiến … nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…”.

Xuyên suốt dòng chảy của thơ ca Việt Nam, “nỗi nhớ” đã trở thành một phần hiện hữu không thể thiếu trong cảm xúc của mỗi người thi sĩ. Trong ca dao xưa, ta bắt gặp nỗi nhớ “bổi hổi, bồi hồi” của người nhà quê Nguyễn Bính. Đến với văn học – thơ ca hiện đại, ta như đắm say trước nỗi nhớ kinh điển, sâu nặng của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng/ Anh nhớ hình/ Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em/ Anh nhớ lắm, em ơi!”. Thế nhưng, đến với bài ca “Tây Tiến”, ta dường như quen thuộc trước nỗi nhớ và cũng bỡ ngỡ trước nỗi nhớ, nỗi nhớ ấy không còn là nỗi nhớ về tình yêu, về người bạn đời; mà nỗi nhớ của người thi sĩ xứ Đoài là nỗi nhớ thuần khiết về đồng chí, đồng đội; về cảnh sắc thiên nhiên miền núi phía Bắc đất Việt. Và khúc dạo đầu của bản giao hưởng mang tên”nỗi nhớ” ấy được thể hiện qua hai câu thơ đầu tiên trong bài:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Sông Mã về mặt địa lý là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt Lào thuộc các tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa. Dòng sông này lắm thác lắm ghềnh, dốc đổ dữ dội, như một con trăn tinh khổng lồ uốn mình băng băng giữa núi rừng Tây Bắc hung vĩ. Đọc “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, sông Đà dữ dội hiểm trở, những ghềnh thác ào ạt trút nước, xô nhau tạo thành những bọt sóng trắng xóa cả một chân trời đá, cảnh tượng vừa hùng vĩ, vừa rợn ngợp lại mang thêm nỗi sợ hãi, thì có lẽ dòng sông Mã hiền hòa và đôn hậu hơn nhưng cũng không kém phần hung bạo, đặc biệt hai bên bờ sông Mã là những nấm mồ vô danh của những người lính đã hóa thân cho “dáng hình” dân tộc. Bởi vậy sông Mã hiện lên có phần nào cổ kính và đậm dấu ấn lịch sử. Nếu con sông Đà gắn bó với người đi rừng như một “cố nhân” thì đến với Tây Tiến, dòng sông mà nhà thơ “mây trắng xứ Đoài” nặng lòng ấy lại là một miền kí ức tái hiện những kỉ niệm hành quân, là chứng nhân lịch sử chứng kiến biết bao cảnh vào sinh ra tử, buồn đau, vui vẻ của người lính. Sông Mã chứa đựng đầy kí ức tươi đẹp về trung đoàn Tây Tiến năm xưa, để rồi nó khiến người cầm bút không kìm nén được mà phải bật lên thành lời bằng một thanh bằng “sông” gợi lên cảm giác trầm buồn, mênh mang phù hợp với trạng thái của nỗi nhớ.

Trong lời gọi nhớ thương ấy có 3 đối tượng hiện hữu: dòng sông Mã, đơn vị Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc. Ba yếu tố ấy hòa quyện trong nỗi nhớ của nhà thơ tạo nên một cảm xúc ngân nga sâu lắng. Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại nhiều lần như muốn diễn tả nỗi nhớ đã xuyên vào trái tim và trở thành một vệt lưu giữ sâu hoắm những kỉ niệm, những tình cảm nặng trĩu rung lên trong bản giao hưởng da diết khắc khoải ấy. Nỗi nhớ trải dài, trải rộng ra không gian của núi rừng đại ngàn. Nỗi nhớ của Quang Dũng khiến ta liên tưởng tới nỗi nhớ trong ca dao xưa: “Ra về nhớ bạn chơi vơi”. Thế nhưng, ca dao dùng “chơi vơi” để diễn tả nỗi nhớ về tình bạn, về tình yêu còn Quang Dũng thể hiện nỗi nhớ ấy với đồng chí, đồng đội. “Chơi vơi” là một từ láy tượng hình gợi cho ta cảm nhận sâu sắc về một nỗi nhớ mênh mang, bồng bềnh. Như các nhà phê bình đã nhận định “Đây là nỗi nhớ không định hình, không định tính, không định lượng. Một nỗi nhớ tưởng như xa mà lại rất gần, tưởng như nhẹ mà lại rất nặng, tưởng như không mà lại có”. Có một nỗi nhớ đầy ăm ắp trong tâm hồn Quang Dũng, khó có thể diện đạt được hết bằng lời. Một nỗi nhớ luôn canh cánh, thường trực trong lòng nhà thơ từ ngày xa Tây Tiến.

Hai câu thơ đầu đã mở ra cảm hứng chủ đạo cho bài thơ, đặc biệt cách gieo vẫn “ơi” tạo tính nhạc cho câu thơ, đồng thời vừa là cảm xúc nhẹ nhàng, vừa trải dài và tha thiết. Những âm thanh ấy như dội vào vách núi cứng cáp và thô sơ rồi bật lại và vang xa mãi như những nốt nhạc trầm bổng ngân vang trong bản giao hưởng nỗi nhớ, của một người lính xưa luôn nhớ về chốn cũ, về trung đoàn, về những năm tháng oanh liệt khó quên.

Nhà thơ Rabindranath Tagore từng tâm niệm: “Khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài thì ta có thơ”. Đúng vậy, đọc những vần thơ của Quang Dũng, ta thấy trong từng câu, từng chữ đều chan chứa những dòng cảm xúc, tâm tư mãnh liệt. Khởi đầu của thước phim kí ức từ nỗi nhớ “chơi vơi”, không có lấy một thanh trụ để làm điểm tựa cho sự nhớ nhung, đằng sau những lời gọi thân thương là nỗi nhớ ùa về. Đó là những tên bản, tên mường, tên đất: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch,… Đó cũng là địa bàn chiến đấu, hành quân của lính Tây Tiến. Chỉ mới đọc lên thôi, ta cũng cảm nhận được sự heo hút, hiểm trở, những vùng đất địa đầu của Tổ quốc, nơi rừng thiêng nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc, đủ để thấy được sự khó khăn, vất vả mà lính Tây Tiến phải đối mặt. Nét đặc sắc đầu tiên hiện lên trong miền kí ức của nhà thơ là màn sương giăng mờ mờ ảo ảo, phủ kín Sài Khao. Câu thơ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” cho ta một cảm nhận chân thực về hình ảnh binh đoàn Tây Tiến hành quân trong sương, vùi lấp trong làn sương dày đặc ấy. Bằng bút pháp hiện thực xen lẫn cường điệu hóa đã gợi ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả về hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt ở Sài Khao. Cùng với đó là nhịp thơ 4/3 gợi lên một cảm giác mệt mỏi của người lính, dường như họ sắp ngã và sắp chìm trong sương. Quang Dũng lại tiếp tục tua chậm thước phim của mình về nỗi nhớ thiên nhiên miền Tây:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc được mở ra bằng hàng loạt những từ láy gây ấn tượng với bạn đọc: “khúc khủyu”, “thăm thẳm”. Phải chăng những từ láy tượng hình ấy đã phác họa được phần nào cái hiểm trở, cheo leo của dốc đèo miền Tây – địa bàn chiến đấu của những người lính Tây Tiến. Nếu như “khúc khuỷu” diễn tả sự gồ ghề, ghập ghềnh của những dốc núi thì “thăm thẳm” lại miêu tả độ cao vời vợi, hun hút của những con dốc. Điệp từ “dốc” đứng đầu mỗi vế câu tô đậm những con đường dốc cao nối nhau đến vô tận. Trước mắt người lính Tây Tiến có vô vàn những con dốc mở ra, dốc nối tiếp dốc, đèo nối tiếp đèo cứ nối đuôi nhau ngoèn ngòe như một chú trăn khổng lồ đang trườn mình trên những triền đá. Người lính dường như còn cảm nhận được sự vắng vẻ, hoang vu qua từ láy “heo hút”, họ như đang đối mặt với trời xanh sâu thẳm, xung quanh họ như được bao bọc bởi những đám mây trắng – một màu đến nôn nao. Không chỉ có tài năng sử dụng hệ thống từ láy đặc sắc, mà thi sĩ xứ Đoài còn sử dụng những hình ảnh rất đắc địa như “cồn mây” – một ẩn dụ để cho người đọc hình dung ra cảnh mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất lên nhau như thành đống, thành cồn. Câu thơ gián tiếp cho thấy hình ảnh con đường hành quân như hòa mình vào mây trời, bao vây đường đèo, mờ mịt, trập trùng khiến cung đường chiến đấu càng trở nên hoang vu, hiểm trở. Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” là một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo, khi người lính đặt chân lên đỉnh đèo dốc núi thì cảnh vật lại càng hoang vắng, họ phải đối mặt với bát ngát trời mây, súng của họ tưởng như chạm tới trời xanh, từ ấy thấy rõ độ cao khôn cùng khôn tận của con dốc. Với nghệ thuật tiểu đối, câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” như được bẻ gãy làm đôi: dốc cao bao nhiêu thì vực sâu bấy nhiêu. Nhà thơ đã dùng số từ ước lượng “ngàn” cùng với hai động từ ngược hướng “lên và xuống” đem đến cho người đọc cảm nhận độ dài vô tận và độ sâu ghê gớm của con dốc. Một con đường đầy hiểm nguy rình rập và bất cứ lúc nào cũng có thể cướp đi sinh mạng của người lính. Trong thơ trung đại, “Chinh phụ ngâm” cũng đã xuất hiện hình ảnh dốc núi:
“Hình khe thế núi dần xa
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao” .

Như vậy người thi sĩ “mây trắng xứ Đoài” đã rất tinh tế và sắc bén trong việc lựa chọn ngôn từ và hình ảnh, khiến ta cảm nhận rõ sự tận cùng gian nan, nguy hiểm của người lính Tây Tiến.

Băng qua sự lạnh lẽo ẩn hiện qua từng lớp sương giăng phủ kín cả không gian núi đồi, cùng những cơn mưa trắng xóa, người lính Tây Tiến lại tiếp tục hành trình chinh phục của mình vào những buổi chiều đêm đầy rẫy những nguy hiểm giữa những tiếng động, âm thanh rợn người của nơi “rừng thiêng nước độc”:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Con đường hành quân của lính Tây Tiến không chỉ khắc nghiệt, dữ dội mà còn là khu rừng hoang dại, hoang sơ, nơi ma thiêng nước độc. Hai hình ảnh “thác gầm thét”, “cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự dữ dội, hiểm trở của núi rừng miền Tây. Thanh trắc được mang trong các tiếng “thét”, “thác” kết hợp với âm vực cao gợi lên âm thanh thác nước miền Tây như ào ào, xối xả tuôn mạnh từ trên cao xuống, tung bọt trắng xóa như tiếng “gầm thét” cực độ của đàn thú rừng trong cơn thịnh nộ. Mười năm trước, miền Tây này đã hoang sợ, bí hiểm bởi tiếng chảy của thác nước, mười năm sau nó vẫn không nguôi ngoai, vẫn “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” trong tùy bút Người lái đò sông Đà của người lữ khách độc hành trên độc đạo chữ nghĩa – Nguyễn Tuân. Dường như lính Tây Tiến là người đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này, những âm thanh rùng rợn của rừng già đã diễn tả cao độ sự kinh hoàng và ghê sợ của chốn thâm sơn cùng cốc. Những từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” như mở ra một không gian vô cùng vô tận về sự khủng khiếp đe dọa tới tính mạng của người lính trẻ. Khoảng thời gian này là quãng thời gian thường xuất hiện trên con đường hành quân của người chiến sĩ, đó là “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” (Việt Bắc – Tố Hữu), người đọc như cảm nhận được dấu chân lởn vởn của cọp dữ đang theo sát chặng đường hành quân của lính. Từ đó, càng làm tôn lên vẻ đẹp bước chân kiên cường, dũng mãnh như bước chân rầm rộn của chúa tể sơn lâm.

Những ấn tượng về miền Tây như một bức phông nền để đậm tô chân dung người chiến sĩ thêm hào hùng, mạnh mẽ. Họ đã in dấu chân mình lên những vùng đất vắng, mây trời ngự trị, thiên nhiên bí ẩn âm u, họ đã vượt qua những gian truân vất vả bằng khí phách kiên cường và lòng dũng cảm. Cái hiểm nguy của núi rừng đan xen cùng tình đồng đội ấm áp, ý chí sắt đá đã dệt nên một thước phim “Kí ức” hay và đẹp đến vô cùng trong trái tim Quang Dũng, cũng như trong trái tim của mỗi bạn đọc.

Một nhà văn người Nga đã từng tâm niệm: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Hiểu được cái thiên chức cao cả ấy của người cầm bút, Quang Dũng đã mở đường cho bạn đọc đến với cái trữ tình, mộng mơ của xứ sở Tây Bắc hoang vu, cheo leo qua câu thơ: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” được vẽ bằng bút pháp lãng mạn. “Đêm sương” khắc nghiệt ấy đã được thi vị hóa trở thành “đêm hơi”, những ngọn đèn đuốc rực ánh lửa đỏ soi chiếu con đường đi của người lính cũng được nhà thơ biến hóa trở thành những bông hoa dâm bụt đỏ chập chờn, lung linh, huyền ảo. Tuy nhiên, ta cũng có thể hiểu “hoa về trong đêm hơi” là hương hoa rừng lan tỏa, phảng phất theo từng bước chân của người lính. Nhờ vậy mà những cảm giác mệt mỏi như tiêu tan chỉ còn những cảm hứng hào hoa về núi rừng Tây Bắc, những cảm nhận ấy như tiếp thêm sức mạnh cho lính Tây Tiến có thể tiếp tục trèo đèo, lội suối, vượt qua con đường gian khổ phía trước. Và cũng từ cảm nhận ấy ta thấy được vẻ đẹp lãng mạn, trẻ trung và yêu đời của trung đoàn. Đó là cốt cách riêng của những chàng trai chốn Hà thành.

Nếu những câu thơ miêu tả chặng đường được xây dựng bằng bút pháp hiện thực, thì câu thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại được xây dựng bằng cảm hứng lãng mạn. Đại từ phiếm chỉ “ai” vang lên như một lời hỏi bâng khuâng, xao xuyến, vấn vương một niềm xúc cảm khó quên lãng. Đó là cảm giác bình yên, ấm áp đang trào dâng trong nỗi lòng của những người con xa quê. Hình ảnh lãng mạn “mưa xa khơi” khiến cả núi rừng như loãng tan trong biển mưa lạnh lẽo, không gian càng trở nên mênh mang, xa vời hơn. Đứng giữa khung cảnh núi cao ngàn thước, người lính trẻ đưa cặp mắt hướng vào những ngôi nhà xa xăm ở Pha Luông đang nhòa mờ ẩn hiện giữa màn mưa trắng xóa đến nao lòng. Họ như đang phóng hết tầm mắt của mình để đón lấy cái thi vị hữu tình của thiên nhiên non cao ban tặng. Nếu như ở những câu thơ trước, nhà thơ chủ yếu sử dụng những thanh trắc, đọc lên thôi cũng thấy sự nhọc nhằn, trắc trở như hơi thở nặng nề của người lính Tây Tiến, thì đến với câu thơ cuối cùng này lại được thay thế hoàn toàn bằng thanh bằng tạo nên cảm giác nhẹ nhàng, lâng lâng, thoải mái, nó xua tan đi biết bao những mệt mỏi, khó khăn của binh đoàn Tây Tiến khi phải trèo đèo, lội suối. Ngắm nhìn bản làng trong mưa – một khung cảnh đẹp lung linh và thơ mộng nửa hư, nửa thực khiến người lính trẻ có được những phút giây thư giãn hiếm hoi trên con đường hành quân đầy rẫy những hiểm nguy rình rập.

Trong “Hương sắc Tây Bắc”, Lê Mận viết: “Lên Tây Bắc chúng ta không thể không ấn tượng về những con đèo khúc khuỷu, một bên là vách núi dựng đứng ngước mỏi mắt chỉ thấy vách núi dựng đứng mây và lau lách hòa cùng một mà trắng mờ sương…nhưng dường như tất cả không làm Tây Bắc mất đi vẻ đẹp vốn có. Một Tây Bắc khác đậm đà hơn, quyến rũ hơn và cũng ấp áp hơn trong lòng lữ khách phương xa. Những con đường đèo quanh co uốn khúc, những nếp nhà sàn, những vệt khói mỏng của bếp nhà ai đang nhen lửa, những thửa ruộng bậc thang như bức tranh thiên nhiên hùng tráng. Ta như phiêu bồng trong chốn ấy để rồi bắt gặp những nụ cười hiền hậu rạng rỡ, những sắc hoa sắc lá, những sắc màu thổ cẩm…điểm tô cho đất trời, cho lòng người”. Đọc những dòng tâm sự đầy cảm xúc ấy, tôi nhớ ngay đến Quang Dũng, cũng từng miêu tả sắc khói Tây Bắc qua hình ảnh:
“Nhớ ôi! Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Con đường hành quân không chỉ có những gian khổ chồng chất, mà giữa những hiểm nguy ấy vẫn còn có những kỉ niệm ngọt ngào, đằm thắm ân tình. Nơi miền Tây ngút trời xanh thẳm không chỉ “gầm thét” với tiếng cọp dữ, mà nơi đây vẫn còn đọng lại nơi tình người thiêng liêng và ấm áp. Người lính Tây Tiến không thể nào quên những kỉ niệm với đồng bào Mai Châu, sau những ngày hành quân họ dừng chân bên bản làng Tây Bắc. Họ nhớ bữa xôi đầu mùa “có em” ngạt ngào mùi khói thơm mang lại cảm giác thật giản đơn và thanh bình trong tiết trời giá lạnh nơi thâm sơn cùng cốc. Bữa cơm ấy khiến ta liên tưởng tới âm thanh “tiếng gà trưa” vang vọng trên con đường hành quân của người chiến sĩ trẻ khi phải xa nhà, xa người bà thân yêu, gác lại thứ tình cảm riêng tư để lên đường chiến đấu trong thơ của Xuân Quỳnh. Bữa cơm nếp xôi đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là thứ kỉ niệm khó phai trong cuộc đời của người lính hôm nay và mai sau. Thán từ “Nhớ ôi!” bộc lộ cảm xúc trào dâng mãnh liệt về Tây Bắc, về bản làng, về những người mẹ, người em. Đó là thứ tình cảm mà người lính không bao giờ có thể quên. Trong thơ ca kháng chiến, hương vị có cảm giác tình thân ấy đã thổi một làn gió mới vào thơ ca như một tinh thần khích lệ, động viên các anh:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Người lính đón nhận tình cảm của người dân Tây Bắc không chỉ bằng khứu giác mà đón nhận bằng cả tâm hồn đam mê và ngây ngất qua tổ hợp từ “mùa em” gợi lên cảm giác yêu thương đằm thắm, dường như trong bữa cơm nếp xôi đầu mùa ấy còn có ánh mắt sóng sánh đưa tình của các cô thôn nữ khiến các chàng lính trẻ cảm thấy ấm áp, ngọt ngào, hạnh phúc và yêu thương.

“Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ”, bởi lẽ đó hình ảnh con người luôn luôn là tâm điểm cho mọi bức tranh thiên nhiên, có như vậy khung cảnh ấy mới thêm sinh động và có hồn. Bức tranh thiên nhiên rừng núi Tây Bắc cũng vậy, với hình ảnh binh đoàn Tây Tiên là điểm nhấn chủ đạo. Cuộc chiến tranh gian khổ đã qua đi, dân tộc ta bước vào kỉ nguyên độc lập – tự do. Có lẽ bức chân dung người lính Tây Tiến một thời đã bị phủ lấp đầy lớp bụi thời gian, nhưng hình ảnh của họ không thể nào nhạt phai trong tâm hồn mỗi người con đất Việt, trong linh hồn thiêng liêng của dân tộc với vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Kiêu hãnh giữa biển mây mù sương khói và lạnh giá, những cuộc hành quân dầm mưa dãi nắng đối mặt với dốc cao vực thẳm, đối mặt với con đường hoang dại, hoang sơ, nhiều người lính Tây Tiến đã hi sinh:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Họ vĩnh biệt đồng chí, đồng đội của mình để nằm lại lưng đèo dốc núi. Hình ảnh người lính phong trần như thả mình vào giấc ngủ - một giấc ngủ chất chứa đầy sự mệt mỏi nhưng vô tư, trẻ trung. Từ láy “dãi dầu” đã tái hiện những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi vượt qua con đường miền Tây khó đi, vượt qua nắng mưa, sương gió. Bằng biện pháp nói giảm nói tránh “không bước nữa”, “bỏ quên đời”, Quang Dũng đã thi vị hóa cái chết của lính Tây Tiến trở nên thật nhẹ nhàng, thanh thản như một giấc ngủ xuân, không tạo ra cảm giác sợ hãi nhưng cũng đầy đau đớn và xót xa. Người lính ra đi trong tư thế quả cảm, súng vẫn cầm chắc trong tay, mũ vẫn đội trên đầu “gục trên súng mũ”, người lính ấy vẫn trong tư thế của một người chiến sĩ chiến đấu, đang làm nhiệm vụ đến quên mình. Tư thế của họ đã tạc nên dáng đứng Việt Nam dù sống dù chết vẫn oai phong lẫm liệt, ý chí vẫn luôn hướng về nơi ánh sáng:
“Và anh chết trong khi đang đứng băn
Máu anh phun theo lửa đạt cầu vồng”

(Lê Anh Xuân)
Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã tái hiện con đường miền Tây trong nỗi nhớ của mình – một con đường hiểm trở, gian nan, vất vả nhưng cũng đầy thơ mộng như thử thách ý chí và tinh thần của người lính. Nhà thơ đã dùng ngoại cảnh diễn tả tâm cảnh dù có gian nan, vất vả, hi sinh nhưng tinh thần lạc quan, ý chí sắt đá và tiếng cười của lính Tây Tiến vẫn vang lên. Trong câu thơ: “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, hình ảnh mây xanh, bầu trời cao vun vút kết hợp với “súng” tạo nên một tiếng vang lớn trong lòng bạn đọc, gợi lên tư thế hiên ngang, bất khuất của những chàng trai Tây Tiến. Họ như những nhà leo núi tài ba băng băng qua những ngọn đồi, dãy núi cao thấp. Từng áng mây tưởng chừng như đang hòa tan vào cung đường hành quân của họ, khiến lối đi ấy càng trở nên bập bùng, ảo ảnh. Khi người lính đặt chân lên đỉnh dốc thì cảnh vật hiện ra lại càng ớn lạnh, họ phải đối mặt với trời mây bát ngát, bồng bềnh như chốn “bồng lai tiên cảnh”, họ đi trên núi mà như cưỡi mây mà đi, súng của họ có thể chạm tới trời xanh sâu thẳm. Bằng nghệ thuật nhân hóa đầy tếu táo và thú vị “súng ngửi trời”, nhà thơ đã diễn tả chân thực độ cao khôn cùng khôn tận của con dốc, đồng thời qua đó ta thấy được tâm hồn trẻ trung, yêu đời, tinh nghịch của những người lính phong trần coi thường gian nguy, vất vả. Đọc “Bông hồng vàng và bình minh mưa”, Pauxtopxki viết: “Ý sáng tác là một tia chớp. Điện khí trong nhiều ngày tích tụ lại mỗi lúc một nhiều thêm bên trên mặt đất. Khi bầu không khí đầy ứ điện thì những mảng mây trắng sẽ biến thành những đám mây giông khủng khiếp và những đám mây ấy, từ trong lượng điện dày đặc phát sinh một tia lửa đầu tiên-đó là tia chớp”. Tia chớp mà Quang Dũng tích tụ nhiều ngày tự trong lòng ấy phải chăng là nỗi nhớ để rồi người thi sĩ giải phóng bằng những ngôn từ hết mực độc đáo và phóng khoáng. Cũng trong năm 1948, Chính Hữu viết “Đồng chí” nổi bật lên với hình ảnh “đầu súng trăng treo” hết sức thi vị và mộng mơ. Sự điểm xuyết, pha trộn giữa một bên là “súng” – tượng trưng cho chiến tranh, một bên là “trăng” – tượng trưng cho hòa bình đã thể hiện được phần nào khát vọng chân chính mà những người lính Vệ quốc quân luôn mong mỏi. Đứng giữa bom đạn, họ vẫn rất lạc quan, yêu đời; vẫn nhìn cuộc sống bằng lăng kính màu hồng, thật trữ tình và lãng mạn làm sao? Đến Quang Dũng, thi sĩ lại kết hợp “súng”“trời”. Mũi súng có thể “ngửi” lấy bầu trời, câu thơ đậm đà sự hào hoa, lãng mạn chinh phục thiên nhiên rộng lớn của những chàng trai chốn Hà thành.

Qua đó, chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn mà tuyệt bút, đã làm bừng sáng chất hội họa trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và nơi ý chí, tâm hồn của những người lính trẻ. Để làm nên những câu thơ bất hủ ấy, không thể không nhắc đến hình thức nghệ thuật của đoạn thơ. Đó là cách dùng từ ngữ nhanh nhạy, đa nghĩa, giàu tính tượng trưng của thi sĩ xứ Đoài mây trắng; cấu trúc tương phản đối lập làm nổi bật nét vẽ hoang sơ của núi rừng đại ngàn, của chốn thâm sơn cùng cốc nhưng cũng không kém phần lãng mạn hào hoa. Những sáng tạo nghệ thuật của Quang Dũng với bút pháp tạo hình đa dạng đã dựng nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng và hình ảnh của người lính Tây Tiến với những đường nét khỏe khoắn, mạnh mẽ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, đậm chất bi tráng tạo nên giọng điệu riêng cho thơ Quang Dũng với nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ độc đáo, vừa có nét cổ kính, vừa mới lạ. Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú, ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…), tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm, giọng điệu khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng… Và không hoài nghi gì khi khăng định bài ca “Tây Tiến” là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ thuật.
Cảm hứng lãng mạn là một trong những đặc trưng tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến. Đó là sự khẳng định cái tôi đầy tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Bởi lẽ đó, thơ ca của thi sĩ xứ Đoài cũng không ngoại lệ mà trong đó cảm hứng lãng mạn được phát huy cao độ trong áng thơ “Tây Tiến”. Cảm hứng lãng mạn trước hết được thể hiện ở “cái tôi” của tác giả: nỗi nhớ của nhà thơ với đoàn quân Tây Tiến. Đó là nỗi nhớ da diết, khắc khoải về những người đồng chí, đồng đội. Họ như đã khắc sâu trong trái tim của nhà thơ, để rồi người thi sĩ bộc lộ nỗi nhớ ấy quá chân thực, quá xúc động. Trong bút pháp lãng mạn tài tình của tác giả, những thủ pháp như: cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Để rồi thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc chỉ là một bức phông nền tôn vinh vẻ đẹp vĩnh cửu của những chàng trai Hà thành từ ý chỉ sắt đá, cho đến tâm hồn mộng mơ, yêu đời. Không chỉ vậy, thiên nhiên vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng có vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình… Hùng vĩ, dữ dội ở những non cao, cảnh mây trời bồng bềnh, giăng kín chặng đường hành quân. Những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà Thành lần đầu tiên đến miền Tây Bắc. Những địa danh tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Hiểm nguy là vậy, thế nhưng giữa vùng đất cô đơn, lạnh lẽo bủa vây kiếp người ấy vẫn chứng kiến những cảnh tượng lãng mạn nơi những màn mưa trữ tình kết hợp sự ấm áp của những bông hoa rừng cùng sự tếu táo, yêu đời của người lính Tây Tiến. Họ đã gạt đi những vất vả, mệt mỏi cùng những chông chênh của cuộc đời để tạo nên tiếng cười, tạo nên một tinh thần lạc quan, ung dung, tươi vui. Đó cũng chính là cách để người lính Tây Tiến thanh lọc tâm hồn và chiến đấu hết mình “quyết từ cho Tổ quốc quyết sinh”.

Bài thơ “Tây Tiến” trải qua bao thế kỉ, bao năm tháng. Bụi thời gian không thể nào đếm xuể, ấy vậy mà bài thơ ấy, bài ca ấy vẫn vang vọng khắp non sông nước Việt, để rồi trở thành khúc tráng ca bất tử của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Thơ ca Quang Dũng là vậy, luôn mang trong mình một sức nặng vô hình, bền bỉ, neo đậu chắc chắn bên tâm hồn mỗi bạn đọc. Đã bảy mươi hai năm, kể từ ngày đoàn quân Tây Tiến cất bước lên đường chinh phục miền sơn cước, ngày hôm nay đây nơi ấy vẫn khói sương mịt mù, núi rừng vẫn heo hút, hiểm trở; thế nhưng ta vẫn nghe thấy đâu đấy tiếng bước chân hành quân “rầm rầm” đầy mệt mỏi mà vẫn tràn đầy sự thân thương cùng ý chí thép ngoạn mục của Trung đoàn 52. “Cảm” Tây Tiến của người thi sĩ mây trắng xứ Đoài hóa ra là để ấp ôm, thấu hiểu cái tráng chí, lý tưởng vì Tổ quốc của những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi sung sức và đầy nhiệt huyết nhất. Khép lại trang thơ vẫn còn ngổn ngang biết bao tâm trạng, tôi lại chợt nhớ về một sáng mùa thu:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

(Nguyễn Đình Thi).


#Rose#BaoNhung#Conthuyenvanchuong

 
Từ khóa
chống pháp quang dũng sông mã tây tiến thơ ca kháng chiến trong lòng hà nội
2K
2
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top