Sau khi An Dương Vương chết, Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc, công danh lớn nhất thuộc về Trọng Thủy, người đã đánh cắp được nỏ thần về đưa cho cha. Tuy được vây quanh bởi vô vàn lời tâng bốc, khen tặng, được mang trên mình chiến công lừng lẫy, chính ra chàng ta phải vui mừng, tự hào mới phải nhưng cớ sao trái tim vẫn cứ quặn thắt, tựa như có dây gai siết chặt, cứa tới rỉ máu? Sao có thể quên được ngày hôm ấy, cái hôm chàng theo dấu lông ngỗng bắt gặp nàng ở bờ biển, thấy thân ảnh nàng đơn bạc đứng đó, đôi mắt kia không còn trong trẻo, hồn nhiên như ngày thường nàng vui cười bên dàn Tử Đinh Hương trong vườn ngự uyển, lúc ấy, đôi mắt kia ngập tràn uất hận, đau xót. Sao có thể không hận được chứ, một kẻ phụ bạc đẩy cha mình vào cảnh vạn kiếp bất phục, một kẻ khiến thần dân nàng chìm trong cảnh lầm thán, sinh linh đồ thán? Rồi trong một khắc thẫn thờ, nàng gieo mình xuống biển khơi cuộn sóng khiến chàng không kịp trở tay, trơ mắt nhìn từng đợt sóng thi nhau nhấn chìm nàng. Cái cảnh tượng đó như cơn ác mộng dai dẳng, liên miên không dứt, giày vò thần trí chàng, khiến chàng ngày đêm chìm trong nỗi dằn vặt, nhớ nhung khôn xiết. Không biết từ bao giờ, cái giếng nước nơi nàng từng hay tắm lại là nơi Trọng thủy chàng tìm thấy bình yên. Ở nơi này có bóng hình nàng công chúa đơn thuần tràn đầy sức sống khiến trăm hoa đua nở, khiến cả khu rừng nhộn nhịp tiếng hót vang. Ngày qua ngày, nỗi nhớ chồng chất, ân hận ăn sâu, chàng gieo mình xuống giếng. Dường như đó là cách duy nhất để gặp nàng, bồi tội với nàng, cầu xin nàng tha thứ....
Oái oăm thay, số kiếp chưa tận, Trọng Thủy không chết, chàng nương theo làn nước lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, hỏi thăm mới ngỡ ra nơi đây là thủy cung của vua Thủy Tề. Nhìn cung điện nguy nga tráng lệ được khảm hàng trăm viên ngọc minh châu lấp lánh kia, nỗi nhớ sâu trong lòng kia lại nhen nhóm bùng lên như thiêu đốt lục phủ ngũ tạng của chàng. Sao mà những viên châu ấy lại giống giọt lệ của Mỵ Châu khi gieo mình xuống biển đến thế? Vậy nếu ý trời không để cho ta chết, thì cứ lưu lại nơi này đi, dùng quãng đời còn lại để bồi tội với nàng...Cứ thế, Trọng Thủy mang theo nỗi nhớ nhung xin cầu kiến vua Thủy Tề được phò tá ngài định quốc an dân. Vua Thủy tề cao quý bất phàm an vị trên long ỷ, cất tiếng hỏi:
Về phần Mỵ Châu, hôm ấy khi nàng tuôn lời thề rồi gieo mình xuống biển, An Dương Vương nghe được, vì sinh lòng trắc ẩn, xót thương cho phận liễu yếu đào tơ đã vướng phải nghiệt duyên dẫn đến họa vong quốc, nên đã cứu nàng, nhận nàng làm con gái. Từ khi được phong làm công chúa Thủy Tề, Mỵ Nương ngày đêm dùi mài kinh sử tới hải nạp bách xuyên, bác cổ thông kim, một lòng giúp vua Thủy tề trị quốc an dân, giúp cho bách tính sống trong cảnh an khang, thịnh lạc. Dường như chỉ có như thế, nàng mới có thể phần nào vơi đi gánh nặng tội lỗi ăn mòn, phần nào chuộc lỗi với bách tính Âu Lạc vì sự mê muội vô tri của nàng mà vong quốc. Nàng đã từng nghĩ tình yêu kia đã bị mối thâm cừu đại hận này nuốt trọn, nhưng đến khi gặp lại gương mặt quen thuộc ấy lần nữa, nàng mới biết, sở dĩ còn hận, không chỉ vì thù nước mất nhà tan, mà còn là vì yêu. Nỗi nhớ chôn chặt bây lâu tưởng chừng như đã biến mất giờ đây lại bùng lên. Yêu bao nhiêu, lại hận bấy nhiêu. Hận cớ sao khi ấy lại ngu muội dẫn lang nhập thất, để rồi reo rắc họa sát thân cho toàn bộ bách tính? Hận sao lại vô tri nghe theo lời đường mật giả dối ấy để rồi mất cả cha, cả nước? Cũng hận chính mình cớ sao chàng tội ác tày trời mà giờ vẫn vi tình sở khốn?
Lúc này, bầu không khí trĩu nặng, âm trầm đến nghẹt thở, khiến cả đại điện như nhuốm màu ảm đạm thê lương. Nỗi nhớ nhung chất chứa bao năm giờ đây trào về như đại hồng thủy khiến Trọng Thủy không sao kìm nén nổi. Chàng nghẹn ngào cất tiếng:
Lúc này, Mỵ Châu ngẩng đầu lên. Con ngươi trong suốt đen trầm tràn đầy hận ý:
Mỵ Châu cười chua xót, khóe mắt như có lửa giận bùng lên, cay xè, đau rát. Mặc cho hàng lệ tí tách rơi, nàng phẫn nộ nói:
Trọng Thủy quay sang vua Thủy Tề, quỳ xuống:
Mỵ Châu trầm mặc. Trong đôi mắt âm trầm tĩnh mịch kia nhẹ ánh lên một ánh sáng hy vọng. Đúng vậy, nếu sau khi họ rửa sạch tội lỗi, bắt đầu một cuộc đời mới bằng một thân phận mới, không có bất kỳ ràng buộc nào, liệu có được sống với nhau như bao đôi lứa khác không? Liệu nàng có thể đặt niềm tin vào thời khắc khởi sinh ấy hay không? Mỵ Châu lặng lẽ Trọng Thủy cảm tạ ân điền của vua Thủy Tề rồi đi theo quân lính đứng giữa điện Quang Minh, chờ thời khắc mặt trời hòa vào cảnh biển để xuống trần gian luân hồi. Vào phút cuối cùng trước khi biệt ly ấy, Trọng Thủy nhìn về phía nàng, nét mặt nhu hòa tựa gió xuân, nói khẽ:
_Trọng Thủy, hẹn gặp lại..._
Oái oăm thay, số kiếp chưa tận, Trọng Thủy không chết, chàng nương theo làn nước lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, hỏi thăm mới ngỡ ra nơi đây là thủy cung của vua Thủy Tề. Nhìn cung điện nguy nga tráng lệ được khảm hàng trăm viên ngọc minh châu lấp lánh kia, nỗi nhớ sâu trong lòng kia lại nhen nhóm bùng lên như thiêu đốt lục phủ ngũ tạng của chàng. Sao mà những viên châu ấy lại giống giọt lệ của Mỵ Châu khi gieo mình xuống biển đến thế? Vậy nếu ý trời không để cho ta chết, thì cứ lưu lại nơi này đi, dùng quãng đời còn lại để bồi tội với nàng...Cứ thế, Trọng Thủy mang theo nỗi nhớ nhung xin cầu kiến vua Thủy Tề được phò tá ngài định quốc an dân. Vua Thủy tề cao quý bất phàm an vị trên long ỷ, cất tiếng hỏi:
- Nhà ngươi là ai? Sao lại đến nơi này?
- Bẩm, Thần là Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà - vua nước Triệu. Khi xưa đã gây ra nhiều tội lỗi với thê tử là Mỵ Nương nên đã tìm đến cái chết để bồi tội. Nhưng thiên bất dung gian nên thần đến nơi đây mong có thể được ngài cho phép lấy công chuộc tội.
Về phần Mỵ Châu, hôm ấy khi nàng tuôn lời thề rồi gieo mình xuống biển, An Dương Vương nghe được, vì sinh lòng trắc ẩn, xót thương cho phận liễu yếu đào tơ đã vướng phải nghiệt duyên dẫn đến họa vong quốc, nên đã cứu nàng, nhận nàng làm con gái. Từ khi được phong làm công chúa Thủy Tề, Mỵ Nương ngày đêm dùi mài kinh sử tới hải nạp bách xuyên, bác cổ thông kim, một lòng giúp vua Thủy tề trị quốc an dân, giúp cho bách tính sống trong cảnh an khang, thịnh lạc. Dường như chỉ có như thế, nàng mới có thể phần nào vơi đi gánh nặng tội lỗi ăn mòn, phần nào chuộc lỗi với bách tính Âu Lạc vì sự mê muội vô tri của nàng mà vong quốc. Nàng đã từng nghĩ tình yêu kia đã bị mối thâm cừu đại hận này nuốt trọn, nhưng đến khi gặp lại gương mặt quen thuộc ấy lần nữa, nàng mới biết, sở dĩ còn hận, không chỉ vì thù nước mất nhà tan, mà còn là vì yêu. Nỗi nhớ chôn chặt bây lâu tưởng chừng như đã biến mất giờ đây lại bùng lên. Yêu bao nhiêu, lại hận bấy nhiêu. Hận cớ sao khi ấy lại ngu muội dẫn lang nhập thất, để rồi reo rắc họa sát thân cho toàn bộ bách tính? Hận sao lại vô tri nghe theo lời đường mật giả dối ấy để rồi mất cả cha, cả nước? Cũng hận chính mình cớ sao chàng tội ác tày trời mà giờ vẫn vi tình sở khốn?
Lúc này, bầu không khí trĩu nặng, âm trầm đến nghẹt thở, khiến cả đại điện như nhuốm màu ảm đạm thê lương. Nỗi nhớ nhung chất chứa bao năm giờ đây trào về như đại hồng thủy khiến Trọng Thủy không sao kìm nén nổi. Chàng nghẹn ngào cất tiếng:
- Mỵ Châu, xin lỗi nàng...
- Mỵ Châu, con và hắn có quen biết sao?
- Thưa phụ vương, xưa kia, chàng và con đã từng kết nghĩa phu thê. Ngỡ tưởng rằng sẽ vĩnh kết đồng tâm, bách niên giai lão. Nào ngờ họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm, chàng mưu thần chước quỷ, lợi dụng tình nghĩa phu thê, ăn cắp nỏ thần, dẫn quân xâm chiếm Âu Lạc, khiến bách tính loạn lạc, sinh linh đồ thán, khiến con rơi vào cảnh nước mất nhà tan, phải li hương biệt quán, tá túc nơi đất khách quê người. Nay hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, kính mong phụ vương chứng giám cho chúng con kết thúc đoạn nghiệt duyên này.
- Mỵ Châu, ta biết ta tội đáng muôn chết, thiên địa bất dung. Nhưng nàng ơi, ta cũng là có nỗi khổ riêng. Sinh ra tuy là hoàng thân quốc thích, địa vị tôn quý nhưng nhà đế vương đâu có mấy chân tình? Thân là hoàng tử một nước, ta vốn dĩ không có quyền từ chối bất cứ mệnh lệnh nào của cha, càng không có quyền được từ chối nghĩa vụ quốc gia đại sự. Ở chốn kinh thành long ngư hỗn tạp ấy, ta cũng như bao kẻ khác luôn cố làm tròn phận một con cờ để sống sót. Cha ta vì ôm tham vọng muốn thực hiện mưu đồ chính trị nhằm thâu tóm và cai trị Âu Lạc nên đã sai ta thành thân với nàng tìm cơ hội đánh cắp nỏ thần. Là một đấng nam nhi, lại còn là hoàng tử một nước, ta nào muốn phải đi ở rể, hơn nữa còn là tại một đất nước không đội trời chung với dân tộc mình? Nhưng chốn hoàng cung đâu có ai quan tâm ta muốn hay không, cái họ quan tâm là liệu ta có giúp đất nước mở mang bờ cõi được hay không. Thân phận và địa vị như xiềng xích buộc ta phải tuân theo nếu không muốn lưu xú vạn niên mang trên mình cái danh phản quốc.
Lúc này, Mỵ Châu ngẩng đầu lên. Con ngươi trong suốt đen trầm tràn đầy hận ý:
- Chàng nói là hoàng tử một nước, phải gánh trên mình sứ mệnh trấn hưng đất nước. Vậy còn ta thì sao? Lẽ nào ta không phải công chúa Âu Lạc? Lẽ nào trên vai ta không gánh hưng vong của một quốc gia? Chàng vì sự ích kỷ của bản thân, vì dã tâm của vua cha, vì tham vọng mở rộng lãnh thổ của đất nước mà nhẫn tâm thôn tính một dân tộc hòa bình, nhẫn tâm đẩy hàng trăm nghìn bách tính bỏ mạng dưới đao kiếm vô tình của chiến tranh, khiến sinh linh vô tội rơi xuống vực sâu tử thần. Ngay cả ta, cũng vì chàng mà nhà tan cửa nát, cốt nhục tương tàn. Vì chàng mà mang danh bầy tôi bất trung, nữ nhi bất hiếu, trở thành tội nhân thiên cổ của dân tộc. Nay chàng bảo ta phải thông cảm? Ta thông cảm thế nào? Thông cảm với một kẻ đã phụ tình bạc nghĩa, một kẻ giết cha, hay một tên giặc diệt quốc?
Mỵ Châu cười chua xót, khóe mắt như có lửa giận bùng lên, cay xè, đau rát. Mặc cho hàng lệ tí tách rơi, nàng phẫn nộ nói:
- Trong mắt nhân dân đại chúng, cha ta An Dương Vương thân là chân mệnh đế vương đã lấy công kiến quốc thịnh hưng bao năm nay để đền tội, Trọng Thủy chàng thân là nam nhi đại trượng phu, việc nước hơn việc nhà, chuyện hi sinh tư tình, đặt quốc gia đại sự làm trọng là lẽ thường tình. Nhưng Mỵ Châu ta dù là công chúa nhưng cũng chỉ là phận nữ nhi, bất kể chọn gì cũng bị người đời chỉ trích. Nếu ta cũng như chàng chọn quốc gia đại sự thì sẽ bị nói là vô tình vô nghĩa, bất cận thân tình, lòng dạ độc ác. Nếu như ta nghe theo con tim mà chọn tình cảm phu thê như lúc ấy thì lại bị lên án, thân là công chúa một nước mà lại nối giáo cho giặc, xứng đáng bị trời tru đất diệt. Hai lựa chọn, bên núi đao, bên biển lửa, đến một người học phú ngũ xa, thông thiên đạt lý cũng khó lòng lựa chọn, thử hỏi, một công chúa khuê các từ nhỏ đã được bao bọc, tránh khỏi mọi hiểm ác lòng người như ta thì sẽ ra sao? Nhưng đâu có ai hiểu cho ta? Tất cả tội lỗi đều quy lên ta, để một mình ta gánh cái danh phản quốc, chịu đựng mọi sự oán hận của dân chúng.
- Ta biết ta đã gây cho nàng biết bao cay đắng, nhưng nàng phải tin rằng, tình yêu ta dành cho nàng là thiên địa chứng giám. Đúng là lúc đầu ta ôm theo mưu đồ ăn cắp nỏ thần để sang Âu Lạc thành hôn với nàng. Nhưng không biết tự bao giờ, trái tim trống rỗng, khô cằn của ta đã phủ đầy bóng hình nàng. Tuy đắm chìm trong vầng sáng ấm áp của nàng chưa được bao lâu nhưng tham vọng thôn tính Âu Lạc của ta đã bị bài mòn đi gần hết. Nhưng đâu có giấc mộng nào mà không có hồi kết? Nhận được mật thư thúc giục của vua cha, ta mới bàng hoàng tỉnh dậy từ bong bóng hạnh phúc, đối mặt với hiện thực tàn khốc. Ngày ấy khi ta hỏi nàng lấy gì làm dấu, bởi lẽ, ta biết chiến tranh là điểu không thể tránh khỏi, ly biệt là điều tất yếu, nhưng trong lòng ta không rõ vì sao vẫn ôm một tia hy vọng nhỏ nhoi được gặp lại nàng, cùng nàng nối lại tình xưa, quay về những tháng năm hạnh phúc dẫu biết đó là điều bất khả thi. Hơn 20 năm sống trên cuộc đời, cha dạy ta bài binh bố trận, dạy ta âm mưu quỷ kế để đạt được mục đích nhưng chưa từng cho ta nếm chút dư vị tình thân. Trong mắt y, lợi ích là thứ tồn tại duy nhất. Ta tuy là con trai y, nhưng cũng chỉ là một con cờ của cuộc chiến mưu đồ chính trị thâm hiểm, con bài bị cuốn vào vòng xoáy hỗn loạn của cuộc chiến tranh giành quyền lực. Duy chỉ có nàng, nàng tặng cho ta một mái ấm, một gia đình hạnh phúc, dạy ta biết thế nào là chân tình. Cũng nhờ nàng mà ta nhận ra, quyền lực và địa vị không phải thứ ta thật sự theo đuổi. Nó vĩnh viễn không sánh được bằng một nụ cười hay cái nhăn mày của nàng. Chỉ trách rằng ta nhận ra điều này quá muộn, ta thật sự rất hối hận. Nếu khi ấy nhận ra sớm hơn chút nữa, thì có lẽ, kết cục đã không đến bước đường này...Vậy nên Mỵ Châu, nàng vốn dĩ không có tội, đều là lỗi của ta, là ta đã lừa dối nàng, là ta để nàng phải chịu bao khổ cực.
- Đương nhiên ta tin tình yêu của chàng là thật. Bởi vì yêu, nên lẽ ra chàng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách nhẹ nhàng mà không có bất cứ day dứt nào nhưng chàng lại day dứt khổ sở, cắn rứt lương tâm để rồi lựa chọn cái chết để chuộc tội. Ta hiểu chàng phải mang gánh nặng của hoàng tử một nước, cũng hiểu khi ấy chàng đã phải chịu bi kịch mâu thuẫn nội tâm đau đớn đến nhường nào khi đứng giữ chữ hiếu và chữ tình, đứng giữa tình yêu và bổn phận. Gánh trên vai sứ mệnh của cả giang sơn xã tắc, chàng làm tròn trách nhiệm công dân cũng là điều dễ hiểu. Dẫu sao chàng cũng chỉ là một kẻ đáng thương không được tự quyết định cuộc đời của mình, phải mặc cho dòng thác lũ cuồn cuộn cuốn đi. Suy cho cùng, cũng là do tình yêu của ta không đủ lớn để có thể cảm hóa được chàng.
- Nhưng ta sao có thể không có tội được chứ? Ta thân là công chúa Âu Lạc, gánh trên mình thịnh suy của một đất nước, lẽ ra phải ưu tiên việc quốc gia đại sự. Vậy mà ta lại ngu muội đặt trái tim lên đầu, để rồi gây ra họa vong quốc, đến nỗi cơ đồ đắm biển sâu. Lẽ ra ngày ấy khi chàng hỏi ta lấy gì làm dấu nếu Bắc Nam cách biệt, ta nên sớm nhận ra hiểm họa binh đao ẩn trong hoa ngôn xảo ngữ của chàng. Chỉ trách khi ấy ta ngu muội vô tri để rồi, bao công sức cha khổ cực xây thành đắp lũy đều đổ sông đổ bể. Lũy thành kiên cố là thế, một triều đại hoàng kim hưng thịnh là vậy, bề dày lịch sử ngàn năm oanh liệt hào hùng đến thế, vậy mà chỉ vì sự ngu muội của ta, tất cả đều bị nhấn chìm dưới đao gươm vó ngựa chiến tranh. Thử hỏi khắp đông tây kim cổ, từ thuở khai sinh lập địa, đã có công chúa nào nối giáo với giặc để giết cha diệt quốc như ta chưa? Vậy cái tội bề tôi bất trung, nữ nhi bất hiếu, tội nhân lịch sử, suy cho cùng, cũng là tội của ta... Đối với chàng, ta đã làm trọn tình trọn nghĩa phu thê, tròn trách nhiệm của một cư án tề mi. Nhưng ta quên mất rằng, bên cạnh bổn phận là một người vợ, ta còn mang trọng trách của một công chúa. Đã mang bổn phận là một công chúa, há có thể chỉ làm trọn chữ “tòng” của phận gái bình thường, vậy thì chữ “quốc”, chữ “hiếu” để đi đâu? Để tư tình làm mê muội thần hồn đã là một việc sai trái, nay ta còn vì tư tình mà gây ra họa vong quốc, thì chính là chuyện thiên địa bất dung! Lẽ ra ngay từ đầu, mối hôn sự này đã không nên tồn tại. Lẽ ra ta không nên mù quáng tin vào hoa ngôn xảo ngữ của chàng mà dâng hiến cả tâm can, để rồi thứ nhận về lại là vực sâu của tuyệt vọng. Lẽ ra ngay từ đầu ta phải hiểu, chúng ta lưỡng thế bất lập, ta công chúa đất Việt, chàng hoàng tử đất Bắc, không thể nào tồn tại tình yêu đôi lứa dưới mầm họa tiềm tàng của âm mưu chính trị và tham vọng bá vương, dẫu có lưỡng lưỡng tương vọng cũng chỉ là nghiệt duyên, sớm đã nên chấm dứt. Suy cho cùng, chúng ta đều là những kẻ tội ác tày trời, xứng đáng bị thiên đao vạn quả luân hành.
- Mỵ Châu, chúng ta hữu bản nan niệm đích kinh. Nay ân oán minh bạch tỏ tường, ta nguyện cởi bỏ vương miện, từ bỏ mọi vinh hoa phú quý chốn kinh thành, dùng một đời để chuộc tội với nàng. Trên lưng ta không còn mang gánh nặng hoàng tử, trên vai nàng cũng không còn sứ mệnh công chúa, chúng ta sẽ sống như bao đôi phu thê khác, đạm bạc mà ấm áp chân tình. Mong nàng hãy cho ta một cơ hội, để chúng ta phá kính trùng viên, quay trở lại nhưng tháng năm cẩm sắt hài hòa, được không?
- Phá kính trùng viên? Sao có thể? Khi chàng cởi bỏ vương miện kia, chàng đã hoàn thành xuất sắc trọng trách của một hoàng tử. Chàng nhất quốc thần công, mở rộng bở cõi đất Bắc, hoàn thành nhiệm vụ cha giao. Còn ta thì sao, ta có tội với dân, với nước, với cha, với cả nền lịch sử nghìn năm văn hiến. Chàng bảo ta hãy cởi bỏ vương miện mà quay lại cùng chàng sống hạnh phúc như bao đôi lứa khác? Sao có thể? Sao ta có thể vô tình rũ bỏ món nợ máu của hơn nghìn bách tính Âu Lạc để sống với chàng? Sao ta có thể tiếp tục ân ái với kẻ thù giết cha? Sao ta có thể một lần nữa khờ dại đặt trái tim lên đầu? Lỗi lầm vong quốc giết cha này ta không cho phép bản thân một lần nữa tái phạm!
Trọng Thủy quay sang vua Thủy Tề, quỳ xuống:
- Bẩm, thần Trọng Thủy khi xưa đã gây ra vô vàn tội nghiệt, phạm tội ác tày trời, khiến trời không dung, đất không tha. Tội này dẫu có chết cũng không trả hết. Nay kính mong ngài để con dùng 3 đời xuống trần gian tu tâm tích đức, làm phước ban lành, dùng 7 kiếp để đền tội với Mỵ Châu, mong một ngày được nàng tha thứ. Sau khi rửa sạch oán khí, kính mong ngài ban cho con và Mỵ Châu một thân phận bình thường, không mang trên mình bất kỳ gánh nặng địa vị nào, để chúng con có thể yên bình hưởng thụ hơi ấm tình thân, có thể tương kính như tân đến thiên hoang địa lão.
Mỵ Châu trầm mặc. Trong đôi mắt âm trầm tĩnh mịch kia nhẹ ánh lên một ánh sáng hy vọng. Đúng vậy, nếu sau khi họ rửa sạch tội lỗi, bắt đầu một cuộc đời mới bằng một thân phận mới, không có bất kỳ ràng buộc nào, liệu có được sống với nhau như bao đôi lứa khác không? Liệu nàng có thể đặt niềm tin vào thời khắc khởi sinh ấy hay không? Mỵ Châu lặng lẽ Trọng Thủy cảm tạ ân điền của vua Thủy Tề rồi đi theo quân lính đứng giữa điện Quang Minh, chờ thời khắc mặt trời hòa vào cảnh biển để xuống trần gian luân hồi. Vào phút cuối cùng trước khi biệt ly ấy, Trọng Thủy nhìn về phía nàng, nét mặt nhu hòa tựa gió xuân, nói khẽ:
- Mỵ Châu, xin lỗi nàng... và hẹn ngày tái ngộ.
- Mỵ Châu, con đừng nghĩ quẩn...
- Không đâu cha, chúng con đều là những kẻ tội đồ cần rửa sạch nghiệp chướng. Nay chàng đã hạ phàm, dùng 3 đời để chuộc tội với chúng sanh, thì con thân là công chúa Âu Lạc, cũng sẽ dùng quãng đời còn lại phò cha trị quốc, định quốc an khang, coi như phần nào chuộc lỗi với bách tính Âu Lạc.
_Trọng Thủy, hẹn gặp lại..._