“Chiến tranh… Là cái quái gì ấy nhỉ? Là ngày nào cũng nhìn thấy người chết nhưng lại chưa đến phiên mình?” (“Ăn mày dĩ vãng” - Chu Lai).
Những tấm huân chương chỉ “làm ấm ngực”, đằng sau những tấm huân chương ấy là nỗi đau và cả bao nhiêu mất mát mà chẳng ai có thể chữa lành được. Giữa đạn bom bị khơi lên bởi cuộc chiến tranh phi nghĩa, nhân tính đã trở thành xa xỉ phẩm, nhân dạng bị cái tàn bạo của chiến tranh giày xéo cho méo mó, cong queo. Hết kháng chiến, người lính trở về khi tâm hồn vốn đã chẳng còn nguyện vẹn. Ngày đất nước hòa bình cũng là lúc họ giày vò bản thân trong những cơn đau vô hình của tâm hồn.
Văn học thời chiến hay văn học hậu chiến chỉ là chứng tích lịch sử được con người nhận thức và phản ánh qua cái nhìn chủ quan. Văn học chiến tranh mang đặc thù và tên gọi riêng, trở thành một phong trào văn học rất tiêu biểu nhưng kì thực, nó chưa bao giờ phản ánh được trọn vẹn lịch sử chiến tranh của dân tộc. Các tác phẩm hầu hết chỉ là những lát cắt trên bề mặt nỗi đau, khiến những thứ trần trụi bị vùi đi dưới dấu ấn ngôn từ.
Chiến tranh là trang sử vàng hào hùng của dân tộc, nhưng chiến đấu để bảo vệ nền hòa bình mong manh thời ấy thì có gì hào hùng đâu? Trong “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh cay đắng: “Tình nguyện đi vào bộ đội ở tuổi 17 thì cao thượng hơn vào đại học ở tuổi 17 hay sao?”. Những người chiến sĩ trước khi trở thành người của đất nước, họ cũng đã từng là những chàng trai, cô gái trẻ ngày đêm mơ mộng với những giấc mơ riêng. Nhưng rồi những khía cạnh riêng tư phải dần gác lại, chỉ để tập trung cho sự nghiệp lớn của đất nước. Chiến tranh nã súng vào quyền được yêu, được sống như một con người, làm cho con người ta quên đi nhân tính mà giẫm đạp lên mạng sống của người khác.
Chiến tranh đôi khi làm cho người ta thấy ghét hòa bình. “Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương. Mà những người được phân công nằm lại gác rừng le là những người đáng sống nhất”. Hòa bình là chiến thắng, là khát khao mong ước đến độ phải hy sinh tính mạng của hàng triệu người. Nhưng khi nghĩ về hòa bình, người ta không còn đủ sức để hạnh phúc hay tự hào. Bởi ai cũng hiểu, khi hòa bình lập lại cũng chính là lúc họ phải giày vò mình trong cơn đau, trong nỗi cô đơn không gì có thể bù đắp.
Những người đi giày xéo trên quê hương, đất nước của đồng loại họ, phải chăng họ cũng không có tình yêu với quê hương, đất nước của mình? Sự sống quý giá, đôi lúc phải hy sinh nhưng không phải hy sinh nó để phục vụ cho mục đích phi nghĩa. “Và ta hay Ngụy thì cũng rên như vậy”. Và ta hay bất kì ai tham gia vào cuộc chiến phi nghĩa ấy đều phải chịu đựng nỗi đau, sự mất mát, dù ai khởi xướng nên nó. Vậy tại sao, ta lại giẫm đạp lên quê hương và quyền sống của người khác?
Những tấm huân chương chỉ “làm ấm ngực”, đằng sau những tấm huân chương ấy là nỗi đau và cả bao nhiêu mất mát mà chẳng ai có thể chữa lành được. Giữa đạn bom bị khơi lên bởi cuộc chiến tranh phi nghĩa, nhân tính đã trở thành xa xỉ phẩm, nhân dạng bị cái tàn bạo của chiến tranh giày xéo cho méo mó, cong queo. Hết kháng chiến, người lính trở về khi tâm hồn vốn đã chẳng còn nguyện vẹn. Ngày đất nước hòa bình cũng là lúc họ giày vò bản thân trong những cơn đau vô hình của tâm hồn.
Văn học thời chiến hay văn học hậu chiến chỉ là chứng tích lịch sử được con người nhận thức và phản ánh qua cái nhìn chủ quan. Văn học chiến tranh mang đặc thù và tên gọi riêng, trở thành một phong trào văn học rất tiêu biểu nhưng kì thực, nó chưa bao giờ phản ánh được trọn vẹn lịch sử chiến tranh của dân tộc. Các tác phẩm hầu hết chỉ là những lát cắt trên bề mặt nỗi đau, khiến những thứ trần trụi bị vùi đi dưới dấu ấn ngôn từ.
Chiến tranh là trang sử vàng hào hùng của dân tộc, nhưng chiến đấu để bảo vệ nền hòa bình mong manh thời ấy thì có gì hào hùng đâu? Trong “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh cay đắng: “Tình nguyện đi vào bộ đội ở tuổi 17 thì cao thượng hơn vào đại học ở tuổi 17 hay sao?”. Những người chiến sĩ trước khi trở thành người của đất nước, họ cũng đã từng là những chàng trai, cô gái trẻ ngày đêm mơ mộng với những giấc mơ riêng. Nhưng rồi những khía cạnh riêng tư phải dần gác lại, chỉ để tập trung cho sự nghiệp lớn của đất nước. Chiến tranh nã súng vào quyền được yêu, được sống như một con người, làm cho con người ta quên đi nhân tính mà giẫm đạp lên mạng sống của người khác.
Chiến tranh đôi khi làm cho người ta thấy ghét hòa bình. “Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương. Mà những người được phân công nằm lại gác rừng le là những người đáng sống nhất”. Hòa bình là chiến thắng, là khát khao mong ước đến độ phải hy sinh tính mạng của hàng triệu người. Nhưng khi nghĩ về hòa bình, người ta không còn đủ sức để hạnh phúc hay tự hào. Bởi ai cũng hiểu, khi hòa bình lập lại cũng chính là lúc họ phải giày vò mình trong cơn đau, trong nỗi cô đơn không gì có thể bù đắp.
Những người đi giày xéo trên quê hương, đất nước của đồng loại họ, phải chăng họ cũng không có tình yêu với quê hương, đất nước của mình? Sự sống quý giá, đôi lúc phải hy sinh nhưng không phải hy sinh nó để phục vụ cho mục đích phi nghĩa. “Và ta hay Ngụy thì cũng rên như vậy”. Và ta hay bất kì ai tham gia vào cuộc chiến phi nghĩa ấy đều phải chịu đựng nỗi đau, sự mất mát, dù ai khởi xướng nên nó. Vậy tại sao, ta lại giẫm đạp lên quê hương và quyền sống của người khác?
- Từ khóa
- văn học chiến tranh