Soạn bài: Vịnh khoa thi Hương (Trần Tế Xương)

Soạn bài: Vịnh khoa thi Hương (Trần Tế Xương)

S
Sơn Ca
  • Cộng tác viên 31 đến từ Vietnam
Bố cục

- Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi
- Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi
- Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi
- Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi
Câu 1 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
Kì thi có điều khác thường là trường Nam thi lẫn với trường Hà. Từ “lẫn”: lẫn lộn, báo hiệu điều gì thiếu nghiêm túc, ô hợp, láo nháo trong kì thi.
Câu 2 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

- Hình ảnh:
+ Sĩ tử: lôi thôi, vai đeo lọ → dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác.
+ Quan trường: ậm ọe, miệng thét loa → ra oai, nạt nộ nhưng đó là cái oai cố tạo, giả vờ.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng từ láy tượng thanh và tượng hình: ậm ọe, lôi thôi.
+ Đối: lôi thôi sĩ tử >< ậm ọe quan trường.
+ Đảo ngữ: Đảo trật tự cú pháp “lôi thôi sĩ tử”, “ậm ọe quan trường”.
⇒ Sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi, mặc dù đây là một kì thi Hương quan trong của nhà nước
⇒ Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.

Câu 3 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
- Hình ảnh:
+ Quan sứ: Viên quan người Pháp đứng đầu bộ máy cái trị của tỉnh Nam Định được tiếp đón trọng thể.
+ Mụ đầm: vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà.
⇒ Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi.
- Nghệ thuật đối: Lọng >< váy, trời >< đất, quan sứ >< mụ đầm → Thái độ mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân.
⇒ Tất cả báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến.
Câu 4 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
- Tâm trạng thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi: Ngao ngán, xót xa trước sự sa sút của đất nước. Thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông.
- Hai câu cuối như một lời nhắn nhủ các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.
Nguồn TH
 
Từ khóa Từ khóa
dáng vẻ hinh anh nghiêm túc nhà nước nha tho
808
0
1
Trả lời
Bố cục

Phần 1 (hai câu thơ đầu): Lời giới thiệu kì thi hương.
Phần 2 (bốn câu thơ tiếp theo): Cảnh tượng trường thi.
Phần 3 (hai câu thơ còn lại): Thái độ của nhà thơ trước kì thi hương.
Câu 1 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
Hai câu thơ đầu cho thấy sự tạp nham, hình thức lộn xộn của kì thi, kì thi không còn nhằm tuyển chọn những nhân tài thực sự cho đất nước: Các sĩ tử ở trường Hà Nội xuống thi “lẫn” với sĩ tử ở trường Nam Định.
Câu 2 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
- Hình ảnh sĩ tử:
+ Lôi thôi: khác xa với hình ảnh sĩ tử ngày xưa.
+ Phép đảo ngữ “vai đeo lọ” nhấn mạnh sự lôi thôi.

- Quan trường:
+ Ậm ọe: Lời nói không ra lời nói, không có phong thái nghiêm túc.
+ Phép đảo ngữ “miệng thét loa”: gợi cảnh tượng om sòm, nhốn nháo.
⇒ Cảnh thi cử nhốn nháo, om sòm như một cái chợ, không còn vẻ nghiêm túc của trường thi.
Câu 3 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
- Hình ảnh quan sứ: đến trong sự phô trương, “lọng cắm rợp trời”.
- Hình ảnh mụ đầm: đến trường thi nhưng lại mặc trang phục lố lăng, rườm rà “váy lê quét đất”.

- Biện pháp đối: “Lọng cắm rợp trời” đối với “váy lê quét đất”, “quan sứ” đối với “mụ đầm”, “đến” đối với “ra” → đả kích những kẻ biến trường thi thành chốn phô trương danh thế, ô hợp, nhốn nháo.
Câu 4 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
- Tâm trạng, thái độ của tác giả: Khinh ghét, căm tức, châm biếm, đả kích.
- Lời nhắn gửi ở hai câu cuối: thể hiện nỗi trăn trở, sự lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh đất nước thời buổi ô hợp, nhốn nháo, việc học, việc chọn người tài bị coi nhẹ.
Ý nghĩa
Tác giả Tú Xương thông qua bài thơ đã vẽ nên một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu, đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước.
Nguồn TH
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.