sáng tác Tiểu Thuyết: Sử thi ma pháp

sáng tác  Tiểu Thuyết: Sử thi ma pháp

Phần 1. Chương I: Cuộc truy đuổi trong đêm

Trong đêm khuya thanh vắng, gió thổi nhè nhẹ trên đỉnh đầu của những bông lúa sắp trổ làm chúng đung đưa như đang nhảy múa. Một cuộc rượt đuổi bỗng diễn ra như thể xé toạc đi sự thanh tịnh của màn đêm.
Đang chạy phía trước là một con bạch mã được điều khiển bởi một nông dân già, trên thân kéo theo một toa chứa toàn rơm rạ, nhưng ẩn nấp đằng sau đống rơm ấy là một cặp vợ chồng cùng với đứa trẻ sơ sinh. Thứ đáng sợ đang đuổi theo họ là một đôi chiến mã sắc đen, khoác lên cho mình bộ giáp sắt đầy vẻ hùng dũng, oai nghiêm. Trên lưng là hai kỵ binh mang theo mũ giáp và kiếm, trên mỗi đồ vật chúng mang theo đều có quốc hiệu của vương quốc Naoorlogs.

Cuộc rượt đuổi diễn ra vô cùng căng thẳng và kịch tích hơn bất kì một cuộc đua nào khác. Tiếc thay, con bạch mã này đã quá tuổi để có thể đối chọi với sức trẻ của đôi ngựa chiến ấy, khiến cho khoảng cách được rút ngắn qua từng giây một.

Hai tên kỵ binh dường như nhận ra được điều đó. Một tên cao lớn với đôi mắt sắc sảo và khả năng xử lí nhanh nhạy. Hắn liền kéo mũi tên đã tẩm độc sẵn, nhắm thẳng vào cổ của con bạch mã với sự tập trung tuyệt đối.

Mũi tên bay thẳng theo đường nhắm với một tốc độ siêu thanh, ghim chặt vào cổ con ngựa, máu bắn ra tung tóe. Sau đó chỉ vài giây, con ngựa trút cho mình hơi thở cuối cùng, rồi lăn đùng xuống đất, rơm rạ văng tung tóe lên trên đường và để lộ ra những người đang ẩn nấp. Không còn đường nào để trốn chạy. Để bảo vệ cho sự an toàn của vợ và con, người chồng bước ra.

Ông thực ra là đội trưởng của Heddwich- đội quân hùng mạnh nhất trên đất Naoorlogs và thuộc quyền của triều đình, nhưng ông đang bị tố là kẻ sát hại đức vua.

Đối với Naoorlogs, đây là trọng tội, và là nặng nhất. Họ không chỉ thực hiện bằng cách trừng trị mỗi kẻ phạm tội mà còn sẽ chém đầu tất cả những người thuộc gia đình kẻ phản nghịch, đặc biệt là đứa con của chúng.

Trong khi hai tên kỵ binh còn đang hả hê với điều mình vừa làm được. Ông đứng dậy, rồi lao tới với một tốc độ siêu thanh, tung ra nhát kiếm kết kiễu đi sinh mạng của tên đeo cung tên, rồi kề thanh kiếm sát cổ tên còn lại. Thanh kiếm của ông tuy đã rướm máu của kẻ địch nhưng vẫn toát lên vẻ lộng lẫy, oai nghiêm như là hiện thân của một con rồng.

Nhưng mọi chuyện không phải chỉ đơn giản như vậy, hai tên kỵ binh chỉ là mồi nhử. Nhiệm vụ của bọn chúng chỉ đơn thuần là kết liễu được con bạch mã tại vị trí này, và chúng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách hoàn hảo. Hơn thế, chúng còn đã làm cho vị tướng quân phải lộ diện ra bên ngoài.

Ông đâu biết rằng, khi lưỡi kiếm ông kề cổ tên kỵ binh, thì ông đã rơi vào tầm ngắm của hàng ngàn xe nỏ.

Những ngọn lửa lớn bỗng xuất hiện. Lửa cháy bừng bừng và ngày càng lớn hơn do những ngọn lúa và gió thổi hiu hiu. Tạo nên một vòng tròn lớn, bao vây ông và chiếc xe ngựa đã đổ.

Không còn lựa chọn, ông đành phải cố gắng hết sức để có thể bảo vệ được gia đình mình khỏi sự nguy hiểm.

Một lần nữa, ông lao vào với tốc độ nhanh nhất, đánh gục từng tên điều khiển xe nỏ trong chớp mắt. Nhưng chẳng được bao lâu, kì phùng địch thủ của ông xuất hiện. Đó là Osward- đội trưởng của cánh quân vùng Woodhill.

Tuy cùng chung một đất nước nhưng ông và Osward không bao giờ có cùng chung chí hướng. Họ không bao giờ trên một chiến trường mà cùng nhau chiến đấu cả, có Osward hiển nhiên không có ông.

Osward là một gã to béo và nghiện rượu. Hắn còn là một tên sở khanh, nên ông rất căm phẫn hắn ta. Ông biết được nhiều sự thật được bọn lính hầu che giấu cho tên này, chỉ bởi chế độ vương triều bây giờ đã thối nát hoàn toàn.

Osward tiến tới với một điệu cười ngạo nghễ, hỏi ông với một giọng đầy mỉa mai:
- Lâu rồi không gặp. Gia đình ngài vẫn khỏe chứ?
Dứt câu, Osward và bọn lính của hắn bên ngoài cười phá lên.
Không kìm được sự tức giận qua câu khiêu khích của Osward, ông lao lên tấn công theo lý trí.
Osward nhếch mép cười man rợ. Hắn biết cái bẫy của mình đã thành công.
Osward đứng yên, miệng hắn lẩm bẩm:

- Giatmae!

Ngay sau khi dứt câu, một cây chùy khổng lồ, rơi từ trên trời xuống, đè thẳng vào người đội trưởng Heddwich.

Sức nặng của cây chùy làm rung cả mặt đất khi vừa chạm như là một hồi chuông khổng lồ.

Khói bụi bay mịt mù, chẳng thể thấy được bóng dáng của người tướng quân đâu cả. Nhiều tên lính tên hàng tiền đạo vừa ho vừa dụi mắt. Osward giơ tay ra, thu hồi lại cây chùy. Khói bụi vừa bay đi hết, người của ông lộ ra. Vị lão tướng đã ngất đi nhưng không có vết thương nào quá nặng trên người, do đó chỉ là một loại hình phép thuật phóng đại.

Phe của Osward lại cười phá lên, những tên lính hú hét như bầy vượn giành được chiến thắng trong một cuộc đấu tranh giành lãnh thổ. Chúng bắt đầu bản hùng ca với những lời ngọt ngào, nịnh nọt tuôn ra không ngớt từ miệng lũ lính chỉ để lấy lòng lão ta.

Osward không tỏ ra bận tâm gì mà chỉ ra lệnh chúng nhanh chóng tiến lại để bắt trói gã phạm nhân và người vợ. Nhưng khi chúng vừa bước tới chỗ đứa bé, một tia chớp đen xẹt ngang qua mắt bọn chúng, làm cho thị lực của bọn chúng mất đi tạm thời. Nhưng rồi, tia chớp mất đi cùng với đứa bé.

Osward nổi đóa với lính lác. Hắn tức điên lên, khuôn mặt hầm hừ như muốn ăn tươi nuốt sống tất cả bọn chúng. Tất cả bọn lính đều im lặng, không ai dám hé miệng ra một lời.

Osward là một đầy kẻ tham vọng. Tuy đã bắt sống được hai vợ chồng mang danh phạm tội theo mệnh lệnh nhưng hắn vẫn muốn truy cho ra tung tích đứa bé.

Trời đã gần sáng, hắn ta phải lui về cùng bọn lính để giao nộp thành quả đã đạt được.

Hắn giơ ngón trỏ lên trời, đọc to câu thần chú:
- Resiliene.

Một luồng sức mạnh chạy từ trên không xuống, ban cho hắn một khả năng lạ kì. Hắn vút đi, biến mất trong phút chốc.

Bọn lính hối hả lên ngựa. Chúng chạy dọc theo con đường mòn. Lửa vẫn còn cháy hai bên đường, cả một khu vực như chuyển thành màu đỏ. Máu của bọn lính đổ thành dòng, bốc mùi tanh cả bầu không khí.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Từ khóa Từ khóa
chien dau gia tuong sáng tác tieu thuyet tinh cam văn học
5K
7
44
Trả lời
Chương II: Chiến trận tại Summrta

Osward quay trở lại thành Summrta vào buổi sáng sớm, trước cả tiếng chuông ở nhà thờ Dockbell trong khi binh lính vẫn còn đang trên đường. Hắn hiên ngang bước vào thành với bộ dạng ngạo nghễ của kẻ chiến thắng. Hắn ta kéo lê đôi vợ chồng của người đội trưởng Heddwich, họ sẽ trở thành món hàng đắt giá để Osward có được cho mình danh vọng và quyền lực.

Bộ dạng và tính cách hống hách của Osward khiến cho mọi người đều xa lánh hắn. Tội lỗi của Osward đều được mọi người biết, nhưng họ đều phải bất lực vì không có địa vị ở một vương quốc như thế này.

Hầu hết tất cả người dân trong thành, ai ai cũng biết về những câu chuyện đáng kinh tởm của hắn ta, thậm chí còn có cả những gia đình là nạn nhân của hắn. Thế nhưng, do họ chỉ có quyền lợi cao hơn bọn nô lệ, nên tội lỗi không thể bị lật tẩy nên hắn chưa bao giờ bị trừng trị cả.

Osward đi tới đâu, những ánh mắt như muốn ăn tươi nuốt sống hắn dõi theo tới đó.

Sau một hồi lâu, hắn đã đi tới được cung điện để diện kiến được vị vua mới của Naoorlogs.

Hắn bước tới, quỳ xuống, hai tay để trước ngực chụm lại vào nhau rồi nói:

- Oauaqia vua Oorlog XVIII.
Vị vua nhếch mép mỉm cười, bảo:
- Miễn lễ.
Osward đứng dậy, phủi bụi bám ở đầu gối rồi dâng lên cho vua hai chiến lợi phẩm của mình, nói:
- Thưa ngài, đây là tên phạm tội cùng với vợ của hắn ạ.
Vua cau mày, hỏi:
- Sao chỉ có hai tên thế? Đứa con của bọn chúng đâu?
- Dạ thưa…. đã để xổng mất rồi ạ.
Vua Oorlog XVIII đập thật mạnh xuống bàn, quát:
- Mau đi bắt thằng nhóc đó về cho ta. Nó mới chính là thứ ta cần.
Osward biện minh:
- Nhưng… thằng nhóc biến mất ngay trước mặt tôi…
Vua thét lên:
- Mau bắt nó về cho ta!
Osward vô cùng tức giận nhưng hắn vẫn giữ vẻ bình tĩnh, nói:
- Vâng ạ. Tôi sẽ mang thằng bé về trong thời gian sớm nhất.
Osward đem thẳng hai vợ chồng thẳng xuống tầng ngục. Đây là nơi giam giữ những tên tù nhân phạm trọng tội với mức án tử hình hoặc chung thân. Nơi đây sẽ giúp bọn chúng chịu đựng lại sự đau đớn, những mất mát đau khổ tương tự như mình gây ra cho người khác.
Gương mặt Osward hầm hầm tức giận. Hắn đâu chịu lép vế bất cứ ai và sẽ lợi dụng mọi người để lấy thêm quyền lực cho bản thân, nhưng rồi Osward bỗng nở lên một nụ cười nham hiểm như thể hắn đã nghĩ ra được một kế hoạch gì đấy.
Khi bọn lính vừa về đến thành, Osward lại tiếp tục giao cho bọn chúng một nhiệm vụ mới. Hắn ta tự lấy danh của vua để thực hiện ý đồ đen tối này của mình.
Trước tiên, để bọn lính gác tạm tin hắn, Osward đã xin chiếu chỉ lục soát có cả dấu ấn của vua từ trước. Vì thế, khi Osward đưa cho bọn lính, chúng chỉ biết răm rắp tuân theo.
Nhưng Osward còn bảo chúng:
-Nếu các ngươi tìm thấy được bất kì đứa trẻ sơ sinh nào, thì phải giết nó. Thà giết làm còn hơn bỏ sót, ta không muốn đức vua phải thất vọng.
- Vâng ạ.
Rồi bọn chúng lên ngựa, phóng thật nhanh về hướng tây, dọc theo con đường mòn tiến tới ngôi làng Horita.
Mười hai giờ trưa, trời nóng kinh khủng. Gió thổi hiu hiu, không mát tí nào mà chỉ đưa thêm hơi nóng vào mặt quân lính. Chúng đi với nhau thành một đoàn quân, trải dài ra gần nửa dặm, dưới sự chỉ huy của Kaphal.
Một tên mở miệng than thở:
- Tên Osward ngày càng quá đáng. Hắn bắt chúng ta làm hết việc này, đến việc khác thế. Tôi không chịu nổi nữa rồi.
Kaphal nhìn hắn rồi nói:
- Biết làm sao được. Chúng ta đâu có quyền lực như hắn.
- Rồi bọn mình phải phục tùng cho Osward suốt à?
Kaphal gắt lên:
- Tiếp tục hành trình đi, đừng luyên thuyên nữa.
Sau một thời gian dài từ trưa cho đến tận rạng sáng của hôm sau, bọn chúng cũng tới ngôi làng.
Kaphal ra lệnh cho bọn lính giấu mấy con ngựa rồi tìm chỗ ẩn nấp:
- Mau tản ra, tìm các bụi cây, gốc cây mà ẩn nấp. Không được để cho bất cứ ai tìm thấy. Rõ chưa
Những tên lính được giao nhiệm vụ vội vàng chuẩn bị cung tên, xe nỏ cho cuộc tập kích sắp tới. Hàng ngàn bộ cung tên được lắp đặt, đầu tên tẩm chất độc, có cả chất bắt cháy. Tuy vậy người dân trong làng vẫn không biết gì mà vẫn đang còn say trong giấc ngủ.
Một tên sơ ý dẫm phải cành cây khô, phát ra tiếng động khá to, nhưng may cho hắn là chưa ai phát hiện. Kaphal rít lên giận dữ rồi lại tiếp tục công việc. Tất cả đã xong, bây giờ bọn chúng chỉ chờ thời cơ để tấn công, chỉ cần một cơn gió thật mạnh từ hướng bắc xuống kết hợp với mũi tên bắt cháy thì cả ngôi làng sẽ ngập trong biển lửa.
Thời cơ đã đến, một cơn gió hướng bắc với sức mạnh vừa đủ để tạo ra biển lửa. Kaphal liền la lên:
- Khai hỏa!
Hơn bảy mươi mũi tên lửa được bắn thẳng qua phía bên làng. Bắn xong, bọn chúng ùa lên, chia ra từng nhóm nhỏ, mỗi nhóm ba người, tấn công các ngôi nhà. Dân làng bừng tỉnh giấc, nhưng đã quá muộn, bọn lính đã tấn công vào trong nhà, tên cầm kiếm, kẻ cầm cung giết hết tất cả mọi người ở làng.
Một số người có được vũ khí trong tay, đứng lên chiến đấu. Lapqa – một thanh niên tài giỏi trong làng, tinh thông võ nghệ. Nhưng bọn lính không tấn công anh ta, chúng chỉ nhằm vào trẻ sơ sinh mà giết. Các thanh niên trai tráng trong làng xông lên, bảo vệ quê hương của mình khỏi lũ lính hung bạo này.
Kaphal quát lên:
- Giết bọn chống cự trước cho ta.
Lapqa lao lên trước tiên, tấn công từng tên lính một với thanh Batogrix. Anh nhắm mắt lại niệm “Loqj”, thanh kiếm đỏ bừng lên, như có thêm sức mạnh. Một tá những tên lính lao lên tấn công Lapqa, nhưng đều bị thanh kiếm hạ gục. Thanh kiếm với sức mạnh huyền bí đã quyến rũ Kaphal bước vào trận chiến này. Kaphal là một lão tướng, trải qua nhiều cuộc chiến, nhiều lần cạch mặt nhau trên chiến trường, còn Lauqa là một thanh niên trẻ tuổi, thiếu sự nhạy bén.
Cậu lao lên, đâm trượt ngang cổ của Kaphal. Nhưng chỉ với một sai lầm, Kaphal đã kịp tung ra một nhát kiếm chí tử vào bụng anh. Ông dành chiến thắng, thanh Batogrix nằm trong tay. Ông không kết liễu cậu mà giơ mũi kiếm ngay mắt Lauqa, cảnh cáo:
- Hãy cẩn thận trong tất cả trận chiến một đấu một, đừng chủ quan như vậy.
Lauqa sợ sệt, tay ôm bụng, mồ hôi nhễ nhại. Anh ta không muốn phải bỏ mạng quá sớm. Van xin:
- Xin ngài hãy tha mạng.
Kaphal trả lời:
- Ta không giết cậu đâu, nhưng thanh kiếm thì phải thuộc về Kaphal này.
Lauqa tức lên, mặt anh đỏ tái lên nhưng Lauqa vẫn đủ thông minh để biết mình cần phải bình tĩnh trong tình huống này. Anh đáp lại:
- Được thôi.
Trong lúc đó, bọn lính đã xông vào nhà dân làng, tìm từng đứa trẻ sơ sinh mà giết, theo lệnh của Osward. Một tên la lớn:
- Bọn trẻ sẽ được ta tìm thấy cả thôi, không đứa nào sống nổi qua biển lửa đâu. Đừng cố trốn nữa. Mau ra đây đi.
Chúng tấn công cả những phụ nữ, trẻ em nào cản chúng lại. Giết, là thứ chúng bận tâm bấy giờ.
Ngôi làng cháy rụi. Trẻ em thì bị tàn sát gần hết, nhiều người trong làng bị thương khi ra sức chiến đấu với chúng. Máu lênh láng trên các con đường trong làng, hàng ngàn con người đã mất.
Lauqa được tha mạng, nhưng anh đánh mất thanh Batogrix và không thể bảo vệ làng mình. Dù cho đau đớn vô vàn, anh ta chỉ có thể thét, tức giận rồi trở nên vô cùng thất vọng về bản thân.
Kaphal và bọn lính lác lui về, nhưng không tìm thấy đứa con bị mất tích của hai vợ chồng đó.
Osward đang nóng lòng đợi tin từ bọn lính. Tuy nhiên, sẽ càng tốt cho hắn nếu không tìm được đứa bé. Do bọn dân làng chắc chắn sẽ đến đây và trả thù.
Rạng sáng của hôm sau, gió thổi nhè nhẹ nhưng chẳng còn bao lâu, nơi đây sẽ lại xảy ra cuộc đấu tranh, để chống lại ách thống trị của vua Oorlog XVIII.
Tin tốt gửi đến Osward. Kaphal báo cáo với hắn:
- Dạ thưa, không tìm thấy đứa trẻ ạ.
Osward giả vờ cau mày, song cho Kaphal cáo lui rồi chờ đợi sự trả thù của dân làng.
Tám giờ sáng của mười ngày sau, hơn hai ngàn xe ngựa tiến thẳng tới thành Summrta, dân làng Horita đã gọi thêm tiếp viện từ đồi Woodhill, vua Oorlog XVIII vẫn chưa biết sự việc. Osward giả vờ vào lay ông dậy, rồi cả hai cũng bỏ trốn. Họ lên xe ngựa, rồi chạy thẳng về phía đông, vào sâu trong rừng, nơi vắng người, có thể ẩn nấp khỏi sự truy lùng này.
Thực ra Osward không tốt với ông như vậy, hắn dự sẽ đưa qua nơi này. Sau đó chính tay kết liễu vị vua đang mang tội danh này, để trở thành một người hùng.
Ở tại cung điện, cuộc đụng độ đã diễn ra, Kaphal một lần nữa phải xuất trận, tay cầm thanh Batogrix, tiêu diệt từng tên nổi loạn.
Lauqa xuất hiện, quyết sẽ một mất một còn với Kaphal, anh không muốn mình phải mang danh kẻ thua cuộc, trên tay cầm vũ khí của bọn kỵ binh. Rồi lao vào một cuộc chiến không hồi kết.
Osward kết liễu vua bằng chính tay mình, hắn nở nụ cười man rợ như đã đạt được điều mình muốn.
Cả phía Tây và Bắc của Naoorlogs đang trong tình trạng rối ren, không người lãnh đạo.
Và cuộc chiến vẫn sẽ tiếp tục, dường như không có kết thúc!
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Chương III: Chuyến đi săn viên mãn
Mặt trời vừa lặn xuống, kết thúc một ngày làm việc mệt mỏi, thì mặt trăng lại xuất hiện ở phía bên phải của cánh rừng Nomus. Korant đang lần theo dấu vết của một con lợn rừng. Nó quì trên cái dấu chân to đùng, bị lún sâu xuống chỗ đất ướt khoảng nửa tấc, với sự quan sát bằng con mắt lành nghề, nó tự khẳng định với bản thân, đây là một dấu vết mới, chừng nửa tiếng trước, cân nặng của con lợn rừng không dưới sáu mươi, đủ cho nó và gia đình cậu Palich ăn đến hết mùa đông. Bầu trời đã chuyển tối, nhưng mây thì thấy rõ từng gợn một đang bay bồng bềnh bên trên. Gió hây hẩy, mát mẻ, thích hợp cho một chuyến đi săn đêm.
Trăng tháng mười hai lơ lửng trên bầu trời, soi sáng cả một khu ở bìa rừng, ửng lên một màu hồng hào trên đỉnh các ngọn cây cao.
Đất khá ướt, chúng bám đầy vào đôi ủng mới cọ rửa từ hai hôm trước của Korant, điều này làm cho cậu không thể di chuyển nhanh hơn được.
Korant suy nghĩ:
“Tất cả là do trận mưa hôm qua, không thì mình đã có thể đem về được món thịt lợn quay thơm phức về cho mọi người cùng thưởng thức vào hôm nay rồi. Đã vậy, trận mưa còn làm ướt cả đồ đạc, bộ quần áo nữa chứ. Thật là đen đủi.”
Qua mùa đông này, Korant sẽ chính thức bước sang tuổi mười sáu, độ tuổi vừa đủ để trưởng thành. Tuy vậy, đôi mắt và bộ não của nó nhạy bén hơn nhiều. Trong mỗi chuyến đi săn, nó đều vắt ngay thắt lưng mình con dao găm tuy nhỏ nhưng đủ sắc, bén để nó xé thịt các con thú, sau lưng luôn là cái ba lô mà anh Cial tặng nó hồi chín tuổi, nó rất quý Cial.
Cial năm nay tầm hai mươi lăm tuổi, người hơi gầy nhưng tốt bụng, luôn ra sức giúp đỡ mọi người trong làng. Ai trong làng cũng quý anh ấy cả, nhưng bây giờ Cial đã đi lên Summrta để có thể tự cải thiện đời sống của bản thân.
Thỉnh thoảng, Korant hay tìm thấy vài viên đá có sức hút và vẻ đẹp lạ thường ngay bìa rừng Nomus này, nhưng cũng hơn sáu chuyến đi săn gần đây rồi, cậu vẫn chưa tìm thấy viên đá nào nữa.
Korant mải mê theo dấu của con lợn rừng ban nãy, không để ý là mình đã vào tận bên trong rừng Nomus. Ông Razid luôn dặn Korant trước mỗi chuyến đi săn, không được đặt chân quá sâu vào khu rừng, vì sợ cậu gặp nguy hiểm.
Korant không phải là một cậu nhóc nhút nhát, nó là tay thợ săn độc nhất trong làng, dám theo thú rừng đến tận hang ổ, vào cả những nơi hiểm trở nhất.
Hồi cậu năm tuổi, một lần theo chú Palich vào đây săn thú, Korant bị lạc vào tận rừng sâu, tí nữa là nó đã phải bỏ mạng trước bầy gấu đen đang đi tìm thức cho mùa đông. Mười hai tuổi, chính tay nó đã bắn gục con hổ đực, nặng gần ba tạ, đem thịt về cho cả làng.
Nhưng hôm nay, Korant không dám liều nữa, sở dĩ sương mù đã bắt đầu bao quanh người. Đó giờ ông Razid chưa lừa nó lần nào, nó hơi sờ sợ, nên đã chọn cách leo lên một cây cao, chắc chắn để mà đánh một giấc, nghỉ ngơi cho qua ngày mai, dù vậy Korant vẫn tiếc vì để lạc mất một miếng thịt ngon như vậy, nó cũng là thợ săn mà.
Korant ngồi trên một cành cây to, lưng dựa vào thân cây, nó đang thưởng thức ổ bánh mì cuối cùng còn sót lại trong ba lô, tuy dở tệ nhưng Korant vẫn cố nuốt trôi nó, rồi cậu lặng người dưới ánh trăng mờ, uống một nửa số nước ở trong túi da.
Đêm nay là đêm thứ ba của nó trong chuyến đi săn này, cạn kiệt lương thực, hơn một nửa số bánh mì đã bị ướt trong con mưa hôm qua, không dùng được nữa, nên Korant đã vứt đi. Nếu không săn được con lợn rừng nào dù lớn hay bé, Korant sẽ phải ra về tay không, có thể sẽ phải ăn củ trong những ngày cuối cùng của mùa đông này, mà mua thịt tại cửa hàng ông Wabole thì càng không thể vì nó không có đủ tiền.
Suy nghĩ một hồi, nó tự mình đưa ra một quyết định liều lĩnh, Korant sẽ liều mạng để bước vào phía sâu trong rừng, hi vọng sẽ tìm ra được con thú nào đó, có ăn là được.
Nó nhảy xuống khỏi cái cây đó, chỉnh chỉnh dây cung, kiểm lại số mũi tên, đưa tay xuống chỗ thắt lưng dò tìm con dao. Đã đủ, nó khoác ba lô lên vai, rồi đi tiếp vào khu rừng. Đi qua khoảng hai mươi mấy cái cây to, luồn lách qua dây leo, cuối cùng, nó cũng đã bắt gặp được bóng dáng của con lợn rừng đó, một sự trùng hợp may mắn. Korant mỉm cười, thốt lên:
-Chúng ta có duyên đấy, cậu bạn béo bở.
Nó rút ba mũi tên, rồi gắn một vào cung, đặt hai mũi kia xuống đất. Dưới ánh trăng, giữa rừng sâu, Korant giương cung lên, cho nó một phát chí mạng vào cổ, tiếng con lợn hét một tiếng, to điếc cả tai, vang lớn cả một vùng.
Korant cười:
- Yahoo! Thành công rồi, cuối cùng cũng có thức ăn cho mọi người rồi.
Ột ột,bụng của Korant đang kêu đói, có lẽ như cậu cần phải thưởng thức chút thịt lợn nướng trước rồi.
Korant loay hoay kiếm một ít củi khô nhưng khan hiếm quá, chỉ nhặt được tầm chục cọng. Nhưng chừng đó là đủ để tạo nên một đám lửa nho nhỏ để nướng chín một miếng thịt đùi. Korant rút con dao găm ra xé thịt thành từng tảng, chừa cho mình phần nạt đùi, còn lại thì gói giấy, cất gọn vào trong ba lô.
Cậu nhóm lửa lên, làm một cái chỗ nướng thịt giống với cái mà ông Razid dạy cho cậu khi còn bé. Korant đặt miếng thịt lên trên, rồi nó ngồi bẹp xuống đất, ngã người vào gốc cây cạnh bên, chờ thịt chín.
Vì thấy tẻ nhạt, Korant đứng dậy, với lên cành cây trên đầy, nhặt lấy khoảng chục chiếc lá xanh, rồi ngồi xuống, cậu đưa chiếc lá trước miệng, thổi những tiếng vi vu, như đang cố tạo ra một bản nhạc du dương vậy.
Nửa tiếng sau, thịt cũng đã chín, hương thơm nức mũi, Korant đứng dậy, đi lại đó xem thử miếng thịt. Chúng đều đã chín, nhưng hơi khét. Tuy vậy miếng thịt vẫn ngon, đây là phần thịt đầu tiên cậu được ăn, tính từ đầu mùa thu đến giờ.
Chưa tới năm phút, cậu đã chén sạch miếng thịt đấy, nó béo và thơm, Korant quẹt phần mỡ dính trên tay vào gốc cây nọ, sau đó cậu nhìn qua trái, Korant thấy một bóng đen, thấp, tầm một mét, nó cầm theo cây gậy. Korant la lớn lên:
- Ai đó?
Không một tiếng đáp lại cả, nên cậu tưởng mình nhìn lầm. Sự tò mò tí nữa đã đưa cậu theo cái bóng đen ban nãy, nhưng có thứ gì đó níu chân cậu lại, một sức mạnh kì lạ, giữ cho cậu không thể tiến tiếp vào sâu trong rừng hơn nữa.
Nơi này khá trống trải, Korant quyết định sẽ đi ngược lại để tìm chỗ ngủ, kê ba lô sát cái gốc cây thông to, nó lơ ngơ nghĩ về bóng đen ban nãy, rồi chìm vào giấc ngủ.
 
Chương IV: Ông Razid

Sáng hôm sau, Korant tỉnh dậy dưới gốc cây thông hôm qua. Nó vô tình bắt gặp một con sóc nhỏ đang bò trên áo. Korant vui vẻ mỉm cười, rồi nhẹ nhàng đỡ con sóc xuống. Korant ngồi dậy, phủi bụi bám đằng sau cái áo sơ mi cũ và trên ba lô. Không khí trong lành, ánh nắng rực rỡ, ấm áp, nhưng hôm nay trời có vẻ đã trở lạnh hơn.

Korant đứng dậy, quan sát xung quanh, xác định đường ra khỏi khu rừng. Rồi khoác ba lô lên vai, treo cây cung bên hông, chỉnh lại con dao rồi lên đường về nhà.

Trời lạnh, nên mặt đất đã khô và cứng hơn hôm qua nhiều lần, may mắn là chưa có tuyết rơi. Korant nhanh chóng đi khuất khỏi đó, nhưng lại quay đầu nhìn cái cây mà bắt gặp cái bóng đen kì lạ ấy, cậu định sẽ về kể cho ông Razid nghe. Vừa đi vừa ngắm cảnh, Korant vô tình nhặt được hòn đá màu xanh huyền, tuy hơi trầy xước nhưng vô cùng đẹp đẽ, điều này khiến cậu vui hơn hẳn.

Tầm giữa trưa, Korant bước ra khỏi rừng Nomus, nó đang đi từ từ trên con đường vào làng, không khí mát mẻ, trời có nắng nhưng không gắt. Trước mặt nó bây giờ là làng Havardor, ngôi làng nằm ở vị trí cách biệt, sát với chân núi Parolance, dường như chẳng có ai biết về sự có mặt của ngôi làng. Quanh năm không có du khách hay dân buôn nào từ phía bắc hay triều đình ghé qua, đa phần họ là những người đến từ phương đông, băng qua sa mạc Redorrlan khắc nghiệt, đem đến lương thực và một số món đồ thú vị.

Khi mới đi từ phía khu rừng vào, ngôi nhà đầu tiên nó nhìn thấy, là của ông thợ rèn Trmit. Đó là một căn nhà khá nhỏ, cổ kính, luôn gắn liền với tiếng búa đập vào kim loại. Tiếp đến là ngôi nhà của ông Razid, là ngôi nhà to nhất nhì trong làng, nó cao hai tầng, lát gạch hoa, cùng với cái ống khói trên đỉnh đầu.

Korant tiến tới trước cửa nhà ông, gõ vào cái cửa gỗ tầm ba, bốn lần. Nó đứng lặng người lại, đợi tầm một phút thì trong nhà có tiếng ông Razid vang lên:

- Đợi tôi một tí, tôi ra ngay đây.

Ông Razid bước tới, mở cánh cửa gỗ ra, lấy tay chỉnh cái kính lão cho ngay tầm mắt, rồi nói:

- Korant đấy à! Chuyến đi săn thế nào rồi? Được mấy con?

Korant cười, rồi đưa tay lên, xoa xoa tóc sau đầu của nó, ngượng ngùng trả lời:

- Chỉ có mỗi..

Nó chưa kịp nói dứt câu thì ông Razid đã lên tiếng:

-Thôi, trời cũng có tuyết rồi đấy, ông với cháu vào nhà rồi nói chuyện, ở ngoài đây kẻo bệnh.

Nó đáp lại:

- Dạ.

Thế rồi, cả hai cùng vào nhà. Korant vừa đi vừa nhìn quanh nhà ông Razid. Căn nhà không có nhiều sự thay đổi sau chừng ấy năm. Tuy bên ngoài to lớn nhưng bên trong nhà lại đầy ắp cái bức tranh của danh họa nổi tiếng vào thế kỉ trước, hình của con gái ông, một vài chậu cây làm kiểng cùng với một thư phòng rộng lớn trên lầu.

Ông Razid nhỏ con, tóc bạc và xoăn, mặc sơ mi vải, tròng ra ngoài là cái tạp dề màu trắng xám, cũ kỹ, lốm đốm bột bánh. Ông có râu cằm, để dài xuống tận cổ, nước da sạm với nhiều chấm đồi mồi, đuôi mắt có nhiều vết chân chim. Ông là một người rất đáng tin cậy, sau mỗi lần đi săn hay có chuyện vui, chuyện buồn gì, Korant đều kể cho ông nghe.

Bước vào phòng khách, ông bảo Korant ngồi đợi ông một tí, rồi ông đi thẳng ra sau bếp chuẩn bị cái gì đó. Khoảng một phút sau, ông đem lên một ấm trà, nóng hổi, cùng với chiếc bánh nướng thơm phức vừa làm xong.

Ông Razid nói:

- Korant, mau lại đây ngồi đi. Ta có vài chuyện muốn hỏi cháu đấy.

Ông vừa nói vừa vẫy vẫy tay của mình, như muốn gọi Korant ngồi xuống ghế thật nhanh. Ông đặt chiếc bánh nướng xuống cạnh bình hoa rồi tiện tay nhấc cái tách uống trà lên, rót nước trong bình rồi ông để trước mặt Korant, nói:

- Uống thử đi, trà ta mua của bọn thương nhân đấy. Mua từ mùa xuân, mà chưa có dịp sử dụng. Cháu uống thử đi, rồi cho ta xem ý kiến.

Korant háo hức, sự mong đợi lộ rõ trên khuôn mặt của nó, hai tay cầm cái tách trà lên, xoa xoa, rồi nhìn vào nước bên trong, chúng có màu xanh và có ánh vàng như mật ong. Hương trà thơm như mùi hoa orcris. Nó uống thử, nước trà nóng bỏng cả lưỡi. Korant không phải là một người quá rành về trà nhưng cũng có thể đưa ra nhận xét về chúng, nó vừa thè lưỡi ra vừa la lên:

- Vị trà đắng quá, đắng nghét.

Ông Razid cười lên, bảo:

- Tại cháu không quen đấy. Chứ loại trà này dịu lắm. Đây, nước đây, uống vào đi cho bớt đắng.

Korant chồm người tới, lấy ly nước lọc rồi uống một hơi cho đến khi cạn nước. Ông Razid hỏi lại:

- Sao rồi? Hết chưa?

Nó lặng người một lát, chép miệng rồi trả lời:

- Dạ ổn rồi ạ.

Ông Razid dừng lại một tí, rồi hỏi Korant:

-Thế.. chuyến đi săn như thế nào? Kể cho ông nghe xem.

Korant hí hởn cắt nghĩa lại chuyến đi săn. Vừa nói vừa kéo cái ba lô của mình lên, rồi khoe cái đống thịt lợn được gói kĩ trong giấy báo. Nó nói:

- Chừng nầy thịt chắc gia đình cháu ăn không hết trước khi qua mùa xuân, nên cháu sẽ bảo cậu Palich làm một bữa tiệc cuối năm, rồi mời mọi người lại. Ông thấy thế được không?

Ông Razid im lặng, nghĩ ngợi một chút rồi nói:

- Cũng được đấy, ta cũng có vài việc cần bàn bạc với mọi người, chắc là sẽ dành tới đó rồi nói luôn.

- Cháu tính thế nhưng chỉ sợ cậu Palich thấy phiền.

Nói xong, Korant mở ba lô ra và móc viên đá hôm trước nhặt được, vui vẻ khoe mẽ:

- Hôm trước trong lúc bắt con lợn, cháu có nhặt được viên đá này, ông thấy đẹp không?

Ông Razid uống chút trà trong tách, rồi nhìn lên viên đá, nói:

- Trông cũng được đấy. Thế cháu định làm gì với nó?

Korant trả lời:

- Cháu chưa biết nữa, chắc cháu sẽ đặt trên kệ ngay chân giường của cháu, chung với mấy món cháu có trong các đợt đi săn cho đẹp ạ.

Ông Razid nói:

- Thế cháu có ý định bán nó không? Ông nghĩ sẽ được một chút đấy.

Korant trả lời lại ngay lập tức:

- Được vậy thì tốt ạ, cháu cũng cần một khoản tiền để mua mấy món đồ, nhưng mà nếu nó thấp quá thì thôi ạ.

Korant cười hì hì. Ông Razid cũng mỉm cười với nó, rồi ông nghĩ ngợi khoảng nửa phút, nói:

- Sắp tới sẽ có những thương nhân, lái buôn từ phương đông đến để cung cấp và buôn bán lương thực. Ông sẽ hỏi họ xem viên đá đấy bán được bao nhiêu, rồi nói cho cháu nhé.

Korant gật đầu. Ông Razid luôn miệng hỏi:

- Nãy giờ ta quên, thế cháu bắt được con lợn rừng ấy ở đâu vậy?

Korant bắt đầu lúng túng, không biết trả lời như thế nào. Nó đã cố tình tránh sự việc này khi cắt nghĩa. Korant nói:

- Dạ… thì.. ban đầu, cháu thấy dấu chân nó ở bìa khu rừng, sau đó cháu theo dấu chân con lợn vào tận sâu trong rừng thì mất dấu…

- Sau đó?

-Dạ.. cháu.. tính là sẽ.. bỏ qua nhưng mà do sợ gia đình thiếu thức ăn nên là cháu phải đành liều mạng vào sâu trong rừng để tìm nó, may mắn là cháu đã tìm thấy ạ.. cũng không vào sâu lắm..

Ông Razid tức giận, nạt nó:

- Ông đã dặn cháu không được bén mảng vào sâu trong khu rừng rồi mà. Vào đấy, lỡ có gặp nguy hiểm thì ai cứu cháu… Đã có rất nhiều người đã thấy sinh vật kì lạ ở rừng Nomus rồi đấy, cháu nên hiểu nguy hiểm là như thế nào đi, ông không muốn nhiều lời.

Mặt ông hầm hầm tức giận vì Korant không nghe lời dặn. Korant lên tiếng biện minh:

- Nhưng cháu đâu muốn cãi lời ông đâu. Nếu cháu không đánh liều một phen thì cuối năm nhà của cậu Palich với cháu lấy gì mà ăn.

Ông Razid tuy hiểu chuyện của Korant, nhưng vẫn tỏ ra vẻ cứng nhắc. Thực ra ông chỉ muốn Korant không gặp nguy hiểm trong những chuyến đi săn sau. Ông Razid quát tiếp:

- Cháu biết là sâu trong khu rừng còn có những sinh vật nguy hiểm không?

Korant ấm ức, đáp lại:

- Cháu biết chứ, nhưng…

Korant chưa nói dứt câu, thì chuông nhà ông Razid vang lên. Ông Razid liền hối hả, chạy ra mở cửa, mặc kệ cuộc trò chuyện của ông và Korant đang có sự tranh chấp về quan điểm của hai người. Sau khi ông Razid ra mở cửa, Korant cũng chạy theo ông, nó muốn xem thử điều gì làm cho ông phải hấp tấp đến thế.

Một người đàn ông cao to bước vào, mặc bên trong là cái áo da cũ, lấm tấm bụi bẩn, khoác bên ngoài là cái áo giống của những tên lái buôn từ phía đông Naoorlogs, hắn trùm kín cả đầu, trên tay cầm theo một cái ba lô to, nặng trĩu. Korant cố gắng nhìn thoáng qua lớp mũ, chỉ thấy được đôi mắt dữ tợn của tên lữ khách đáp trả lại.

Ông Razid bảo cậu về nhà. Korant muốn biết lý do nên hỏi:

- Tại sao ạ? Cháu có thể đợi ông rồi nói tiếp được mà.

Ông Razid trông có vẻ căng thẳng nhưng vẫn cố tỏ ra vẻ gắt gỏng với Korant, ông nói to:

- Về đi, ta có việc bận rồi.

Korant chưa biết lý do nhưng cậu là người hiểu chuyện nên đành ra về. Korant nói:

- Dạ thế cháu về…

Korant đi thẳng đến cánh cửa nhà ông Razid. Nó bước ra ngoài.
 
Chương V: Havardor

Korant bước ra bên ngoài, nó thấy bất ngờ vì thời gian trôi qua nhanh đến như vậy. Trong không khí buổi chiều ngày đông lạnh, Korant nghe rõ tiếng kim loại phát ra trong lò rèn, tiếng chửi bới của cô Harley, tiếng các ông om xòm trò chuyện trong quán rượu và cả tiếng các bà đanh đảnh gọi chồng về.

Korant lủi thủi bước qua những ngôi nhà. Nhà của nó nằm ở cuối ngôi làng, bị che khuất bởi những cây phong. Korant đi thẳng về hướng nam, tới đỉnh gò, nó đã thấy ngôi nhà lộ rõ ra dưới ánh sáng của trăng.

Đó là một ngôi nhà nhỏ, chật chội nhưng đủ cho bốn người trong gia đình sống ở đây. Ngôi nhà được lợp bởi những tấm ván gỗ cũ kĩ, sơn trắng, mái nhà bị phủ một lớp tuyết dày cộm, ống khói bằng gạch men, đang thả ra những hơi khói xám xịt, có vẻ mợ Quatarin đang nấu một món gì đó cho buổi tối.

Xung quanh nhà được bảo vệ bởi hàng rào sắt nhưng chúng đã cũ và gỉ sét nên cũng không chắc chắn là bao. Đằng sau căn nhà tầm năm mét là một chuồng ngựa, gồm có hai con, con đực là Rough, con cái là Nikka. Chúng đều là ngựa trắng, nhưng Nikka thì nhỏ hơn và có một vệt lông màu xám trên lưng. Cậu Palich đã nuôi chúng từ khi bọn nó mới hai tháng tuổi, khi mua được chúng cùng một bầy gà con trong một thương vụ mùa xuân cách đây hai năm.

Mỗi khi Korant có mặt ở nhà, nó đều thay mặt cậu Palich chăm sóc chúng, nên Korant ngày càng thân thiết và cậu xem bọn chúng như hai người bạn của mình.

Korant đi bộ một cách từ từ, chậm rãi, nó tận hưởng không khí se lạnh của buổi chiều cuối đông, rồi cậu tiến tới nhà của cậu Palich.

Korant vặn cái nắm cửa cũ rích, nó được mở ra từ từ. Cánh cửa không hề được cậu Palich khóa lại như mọi hôm, Korant nghe thoang thoảng bên tai những tiếng xì xào của cậu Palich và mợ Quatarin ở đằng sau bếp, nghe giống như họ đang cãi nhau vậy. Korant quyết định đứng lại trước đó, lén nghe thử cuộc nói chuyện.

Họ đang nói về gã lái buôn bí ẩn đến làng vào chiều hôm nay quyết liệt đến mức mà không hề màng đến việc có người đã vặn mở cánh cửa.

Cậu Palich nói to:

- Thế em nghĩ thế nào về hắn ta? Liệu hắn ta là ai, nhưng nếu mà là bạn của ông Razid thì ổn mà, sẽ không có nguy hiểm gì cả, đừng lo.

Mợ Quatarin nhăn mặt, tỏ vẻ khó chịu với cậu Palich, rồi cãi lại:

- Nhưng cả năm nay, thậm chí là rất nhiều năm rồi, làm gì có một tên lái buôn nào đến đây trước mùa xuân chứ.

Bà dừng lại tầm vài giây, rồi lại nói thêm vào một câu nói đầy sỏi đá:

- Mỗi lần như vậy, nơi đây, ngôi làng này, lại phải hứng chịu sự đen đủi nữa thôi, mà bây giờ còn dính vào thêm cả ông già Razid ấy nữa. Rõ phiền.

Cậu Palich thấy Quatarin hơi quá đáng, đành bênh vực:

- Rõ ràng là chưa có chuyện gì xảy ra, mà tại sao em lại làm quá lên thế. Ông Razid là một con người đàng hoàng, tốt bụng mà.

Mợ Quatarin liền trả lời:

- Chưa có chuyện xảy ra thì làm sao mà biết được, cứ chờ đi. Ông ta lúc nào cũng mang đến rắc rối cả.

Cuộc nói chuyện diễn ra ngày càng căng thẳng nhưng cũng có phần thú vị, do Korant không muốn gia đình của mình xảy ra bất đồng với nhau, nên nó tiến tới, với hi vọng có thể dừng lại cuộc tranh luận, nó mở toang cánh cửa ra, tiến nhanh đến căn bếp, nói:

- Con chào cậu và mợ, con mới về.

Cả hai người họ đều giật mình, rồi quay người ra hướng cánh cửa. Dường như cả cậu và mợ đều cảm thấy một chút gì đấy áy náy. Căn phòng bỗng trở nên im lặng trong vài phút.

Korant cũng lặng im nhìn thẳng vào hai người bọn họ. Cậu Palich đứng dựa người vào vào tủ đồ, cậu mặc cái áo sơ mi cũ, tơi tả. Dưới mái tóc bù xù, mặt cậu nó hốc hác hơn nhiều khi vào đông. Mợ Quatarin thì đang mặc cái áo nâu với nhiều chỗ vá, trước ngực cô đang đeo chiếc tạp dề, bó sát vào cái thân hình quá khổ.

Korant im lặng, tiến tới cạnh bàn, rồi tháo cái ba lô xuống lưng, nó lấy cái gói thịt ra, chầm chậm đặt lên bàn ăn. Cậu Palich liền hỏi:

- Cái gì vậy? Cháu mua thịt à? Cháu lấy tiền ở đâu?

- Korant đáp lại:

- Dạ không, cháu bắt được con lợn trong chuyến đi săn.

Cậu Palich hỏi tiếp.

- Thế cháu bắt được con gì?

Korant nghe vậy, sau đó nó thuật lại cho cậu nghe hết cả chuyến đi săn của nó, trừ việc vào sâu trong rừng và gặp sinh vật kì lạ ấy. Nó thích thú kể:

- Một con lợn rừng ạ. To lắm! Hôm đấy đã là ngày thứ ba, cháu cũng đã hết lương thực, nhưng may mắn đã đến, cháu phát hiện ra dấu chân nó và đã bắt được con lợn cách đó không xa.


Cậu Palich vui vẻ hẳn lên, nụ cười liền xuất hiện trên môi, Palich nói tiếp:

- Tốt lắm Korant, chúng ta cuối cùng cũng đã đủ thịt để ăn qua mùa đông rồi.

Korant thấy cậu đang vui vẻ, nó liền tranh thủ cơ hội để nói về bữa tiệc. Korant ấp úng nói:

- Nhưng nhiều thịt như thế này…ba người chúng ta có ăn hết được không ạ?

Cậu Palich suy nghĩ một chút, rồi nói:

- Chắc chắn là không rồi. Nhưng chúng ta sẽ bán lại cho ông Wabole.

Korant ngỏ ý muốn cậu Palich tổ chức bữa tiệc theo kế hoạch đã bàn với ông Razid, nó liền nói:

- Thế sao gia đình chúng ta không tổ chức một bữa tiệc nhỉ? Anh Cial cũng sắp về, chúng ta có thể mời mọi người trong làng đến tham dự cùng.
- Cũng được, nhưng khi nào ta tổ chức?

Korant chưa kịp trả lời thì mợ Quatarin đã xen vào cuộc nói chuyện:

- Lại là lão già Razid nữa à, không có tiệc tùng gì cả, phiền lắm, nhất là khi phải mời ông ta.

Cậu Palich càu nhàu:

- Sao em cứ quá đáng thế, ông ấy đã làm gì đâu mà em ghét cay ghét đắng ông ta vậy.

- Các người muốn làm gì thì làm, một là không mời ông già đấy, hai là đừng tổ chức tại đây.

- Dạ thế cháu đành tổ chức tại nhà ông Razid.

Mợ Quatarin giận tái cả mặt, cô im lặng một phút rồi lại nói với giọng hơi lúng túng:

- Ừ... được thôi... nếu như cháu và ông ta muốn, nhưng mà mợ sẽ không tham gia đâu đấy.

- Sao vậy ạ? - Korant cố tình hỏi lại.

- Hừ.. cháu cũng biết rồi đấy, mợ không ưa ông ta. Hắn chỉ đem xui xẻo đến cho ngôi làng này thôi. Cháu hiểu chứ?

Korant im lặng, nó trả lời lại bằng một cái gật đầu với mợ. Nó đi lại chiếc kệ gỗ trên tường, treo cái cung tên lên trên cùng với cái ba lô cũ. Sau đó. Korant nhìn vào lọ đựng tên rồi nhờ cậu Palich:

- Cháu hết mũi tên rồi, cậu làm giúp cháu vài cái với.

Cậu Palich nhìn nó, rồi ông gật đầu, tay nắm chặt lấy cục đá bên bàn như sợ nó biến mất. Korant đi thẳng vào trong phòng của nó, cậu và mợ Quatarin nhìn theo nó, cái nhìn của họ dần dịu xuống.

Ngay vừa khi vào trong, nó lập tức cởi cái áo đi săn dính bẩn ra, vứt thẳng xuống sàn, rồi lăn ra giường. Về nhà rồi! Lần đầu tiên, sau chuyến đi săn, nó mới có thể ngủ được một giấc ngon lành cho đến sáng.
 
Chương VI: Phép thuật

Ánh nắng ban mai luồn lách qua cửa sổ, chiếu thẳng vào chiếc kệ trong phòng ngủ của Korant. Nó ngồi dậy, lấy tay dụi mắt, sau đó duỗi thẳng đùi, vươn vai và ngáp một cái thật dài.

Korant bước ra khỏi đệm, nó đứng xuống sàn, rùng mình vì sàn nhà lạnh toát. Bên cạnh giường là cái tủ gỗ với hàng chục những món vật tuyệt đẹp mà nó sưu tầm được qua các lần đi săn trong rừng Nomus. Đa phần là đá, một số ít là cành cây hay những bộ rễ cây to lớn và xoắn xuýt. Ngoài ra thì căn phòng trống rỗng, vì chỉ có cái kệ sách trên góc tường, bàn rửa mặt và một cái tủ đồ đi săn nhỏ đặt dưới kệ sách.

Nó đứng đó, nhìn lên trần nhà và nghĩ ngợi một số chuyện xảy ra trong thời gian gần đây.

Thứ làm nó lo lắng nhất, chính là về người đàn ông lạ mặt, mặc trang phục giống với những lái buôn, nhưng người kỳ lạ này làm nó và tất cả người dân trong làng phải hoang mang đó là hành tung của hắn ta, bí mật và lặng lẽ. Hắn làm cho Korant phải tự đặt ra nhiều câu hỏi, “Kẻ này là ai?”, “Hắn đến từ đâu ?”,“Tên này có quan hệ gì với ông Razid?”. Sự tin tưởng của Korant dành cho ông Razid cũng phải lung lay phần nào bởi cuộc cãi vã giữa mợ Quatarin và cậu Palich hôm qua, bởi những lời mà mợ nói và cả những thái độ lẫn nét mặt của ông Razid vào lúc đó. Do vậy, nó quyết định sẽ đến nhà ông để hỏi thật rõ ràng về hắn ta.

Còn một việc, cũng làm nó thắc mắc từ cuối chuyến đi săn đến tận bây giờ, đó là về cái bóng đen bí ẩn mà nó tận mắt nhìn thấy vào cái đêm bắt được con lợn rừng.

Korant đứng đó, một tay chống nạnh, tay còn lại thì đặt lên trán suy nghĩ. Nó đang cố mường tượng lại hình ảnh mà nó thấy được về cái bóng đó. Nó không cao, Korant nhớ cái bóng chỉ cao tầm một mét, nhưng con vật này dường như cầm theo một cây gậy. Korant thoáng nghĩ đến một con khỉ đột nhưng khỉ đột thì không thể nào nhỏ nhắn như vậy. Còn một điểm bất thường nữa, khi nó lên tiếng hỏi “Ai đó?” thì cái bóng lại im lặng, rồi biến mất và không để lại bất cứ tiếng động gì, chẳng nhẽ nó lại hiểu tiếng con người hay vì quá hoảng sợ nên bỏ chạy.

Korant ngẫm lại một hồi rồi tự thốt lên:

- Thật là kì lạ!

Suy nghĩ về chuyện của bản thân một hồi lâu, nó nhận ra mặt trời đã lên, cao hơn những cây bạch dương bên hông nhà, Korant vội vã, đi lại bàn rửa mặt, mở nước và xối lên mặt cho tỉnh táo, nước lạnh chảy xuống cổ lạnh đến mức Korant nổi da gà.

Korant mở cửa, xỏ đôi ủng da bò vào, rồi đi từ từ ra ngoài bếp. Nó trông thấy cậu Palich ngồi trên bàn, tay trái đang cầm cái bản đồ của đất nước Naoorlogs, tay phải thì cầm chiếc kính lúp, cậu Palich kéo cái kính lúp từ từ xuống phía đông nam, ngay cánh đồng nhỏ của làng.

Korant suy nghĩ một chút, rồi nó chợt nhận ra hôm nay hình như là ngày thu hoạch trái cây và lúa mì cho thương vụ sắp tới tại Harpln- một khu đất bỏ hoang, cách sa mạc Redorrlan khoảng mười cây số, nơi đây luôn là điểm buôn bán tốt nhất đối với dân làng Havardor và những lái buôn phương đông.

Cậu Palich đã thay sẵn trên người chiếc áo sơ mi vải màu nâu bùn, quần lửng cho tiện di chuyển, cái khăn tay vắt đằng sau ghế cùng với một gò mên thức ăn đặt trên bàn do chính tay mợ Quatarin nấu từ sớm, hương thơm thoát ra xung quanh, hình như là thịt lợn hầm với củ cải, món mà cậu Palich yêu thích.

Bên bếp là bóng của mợ Quatarin lấp ló, lập lòe, được tạo ra bởi những ngọn lửa trên bếp. Bụng nó bỗng cồn cào vì đói, Korant lên tiếng hỏi:

- Mợ có nấu dư chút thịt không?

Mợ Quatarin quay sang cái rổ úp chén đĩa, lấy cái tô to nhất, cô múc đầy cả tô, toàn những miếng thịt hầm, mềm, ngon lành, thấm đầy nước sốt.

Korant đi tới, nó chìa hai tay ra nhận lấy tô thịt hầm từ tay mợ Quatarin, khuôn mặt tỏ ra thèm thuồng, nó nói:

- Con cảm ơn mợ.

Bà ta đáp lại:

- Không có gì, thịt này là của con đem về mà.

Nó đem tô thịt lại ngay bàn ăn, rồi ngồi xuống cạnh chỗ cậu Palich, rồi nó bóc từng miếng thịt lợn cho vào miệng, ăn một cách ngấu nghiến, thịt mềm, ngọt lịm, ngon đến nỗi Korant xử gọn cả tô chỉ trong năm phút.

Ăn no nê xong, mợ Quatarin đem lại cho họ hai cốc nước nấu từ hoa rnakan- một loại hoa mọc dại nhưng nước nấu từ nó lại rất ngon và ngọt, vị giống với quả xoài. Chúng thường mọc trên những bãi đất khô cằn vào mùa thu, vì thế người dân nơi đây gọi chúng là “những chiến binh kiên cường”, do chúng sống ở nơi không có chất dinh dưỡng gì nhiều nhưng bông hoa lại rất đẹp, toát hương thơm quyến rũ, người dân thường nhặt chúng rồi phơi khô để dùng, đôi khi qua nhiều thì lại đem bán cho bọn thương nhân.

Korant uống một ngụm nước, nó vẫn ngon như mọi khi. Ngồi suy nghĩ một chút, Korant hỏi cậu Palich:

- Hôm nay cậu ra đồng thu hoạch phải không?

Cậu Palich bình thản kéo tấm bản đồ thấp xuống, cậu xếp nó gọn lại, rồi đặt lên bàn, cậu trả lời nó:

- Đúng vậy, nhưng ta hi vọng trời sẽ không đổ tuyết, nếu mà thế thì ta sẽ không về nhà được trong ba đến bốn ngày tới.

- Cháu cũng mong vậy. Thế cậu đi với ai?

- Sars và ông Trmit cùng cháu của ông ấy - Fplo.

- Cháu có thể đi cùng nữa được không? Còn công việc gì để cháu làm giúp không cậu? Có thêm một tay nữa giúp có khi lại nhanh hơn đấy.

- Chắc là không. Mùa vụ lần này do bị sâu bọ ăn gần một nửa nên chỉ còn khu đất trồng lúa mì và một phần đất nhỏ trồng cà chua, nên chắc bốn người bọn ta là được rồi. Cháu nên ở nhà đi, sắp tới thương vụ rồi đấy. Cậu nghĩ ta cần chuẩn bị chiếc xe kéo trong kho trước đã, cùng với một số vật dụng cần thiết. Cháu giúp cậu được chứ?

Korant im lặng một hồi, nó trả lời cậu:

-Hôm khác được không ạ? Cháu nhớ là hôm nay cháu có hẹn sẽ giúp ông Razid lau dọn nhà cửa và chuẩn bị một vài thứ cho bữa tiệc rồi, một mình ông dọn không nổi.

Korant tình cờ liếc sang rồi bắt gặp khuôn mặt mợ Quatarin trở nên khó chịu khi nghe chuyện Korant thường xuyên qua nhà ông Razid, nhưng cô cố tình lờ đi chuyện đó và tiếp tục chuyên môn nấu nướng. Cậu Palich thì im lặng nhưng cậu tôn trọng Korant và những lời hứa, cậu nói:

- Được thôi, nếu cháu đã hứa thì hãy thực hiện nó một cách trọn vẹn nhất. Nhưng ta cần cháu chuẩn bị những thứ đó trước thương vụ ít nhất bốn hôm để ta còn chất lúa mì lên xe cho kịp ngày xuất phát.

Korant vui mừng vì cậu không ngăn nó giao du với ông Razid, nó mỉm cười và nói:

- Dạ, cháu sẽ chuẩn bị chúng cho cậu sớm nhất có thể, cho kịp với thương vụ sắp tới. À mà cậu có nghe tin gì về anh Cial không? Mùa xuân năm nay anh ấy có về không? Cháu chưa nghe tin gì về anh cả.

- Cậu cũng chịu, Korant ạ! Chắc nó không về được rồi, làm việc cho triều đình tuy là sẽ có thu nhập dư để trang trải cuộc sống nhưng lại trả giá lại bằng tất cả thời gian của mình, chính quyền Naoorlogs khắc khe lắm.

- Ta còn nhớ, khi Cial nó mới được triều đình nhận, nó hay viết thư gửi về cho cậu và mợ lắm. Nó hay than thở, khóc lóc và nói rằng nó muốn về nhà, nhưng từ năm ngoái trở lại, nó không còn viết thư nhiều như trước nữa, chắc vì công việc bận rộn và nó đã quen với cuộc sống ở thành Summrta.

- Cậu cũng buồn lắm chứ! Nhưng Cial còn tương lai của nó. Nó là đứa con duy nhất của ta và mợ. Ai mà chẳng yêu thương con của mình.

Nói xong, giọng cậu Palich nghẹn lại, mắt cậu rưng rưng nhưng lại cố kìm nén chúng lại, như thể muốn giữ hình tượng cứng rắn trước Korant. Nó an ủi cậu:

- Cậu đừng buồn quá! Chắc anh Cial sẽ cố gắng thu xếp, về sớm trong năm nay thôi. Anh chắc chắn cũng phải nhớ gia đình lắm, cũng hơn ba năm rồi mà!

- Cậu cảm ơn, hi vọng Cial sẽ về.

Mặt trời đã lên cao hơn, gần lên tới đỉnh đầu, đã đến lúc cậu Palich phải khởi hành ra cánh đồng để thu hoạch cùng với ba người trong làng. Nó cách làng mười hai cây số về hướng đông nam, tốn khoảng ba tiếng đi bộ và một tiếng rưỡi nếu đi xe ngựa.

Trước đây, nó là một khu vực trống trải, nấp kín sau lưng núi Parolance, khi người dân nơi đây đến, họ đã tìm được nó và đã cố gắng để ổn định lại độ phì của đất để họ có thể trồng trọt được.

Cậu Palich lấy cái bản đồ lên, rồi bỏ gọn vào trong túi áo, đặt lại kính lúp lên trên bàn, cạnh cốc nước. Cậu bắt đầu đứng dậy, duỗi tay một cái thật lâu. Tay phải cầm gò mên thức ăn, tay còn lại thì với tới chiếc ghế lấy cái khăn lau mặt, vắt lên vai. Rồi cậu đi tới giá treo, lấy cái nón, tuy nó đã cũ nhưng lại rất nhiều kỉ niệm đối với cậu Palich, nó là cái mà anh Cial tặng trước hôm lên thành Summrta.

Cậu đi ra bên ngoài cửa, chuẩn bị một vài món đồ cần thiết trong kho. Korant đã thấy bóng dáng của ông Trmit, Fplo và anh Sars đứng đợi, cùng với một chiếc xe dùng để chất lúa mì do hai con ngựa kéo, cùng với hai con ngựa nâu đằng sau. Cậu Palich tháo dây cho con Rough, dẫn nó ra bên ngoài để lên đường ra đồng. Cả bốn người họ đã sẵn sàng, tất cả leo lên ngựa rồi chạy đi thật nhanh. Korant dõi theo họ, cho đến khi không còn thấy được nữa.

Nó vào nhà, nói với mợ Quatarin:

- Cậu Palich đã lên đường ra cánh đồng rồi mợ. Bây giờ chắc cháu cũng phải ghé nhà ông Razid để giúp ông dọn dẹp nhà cửa, buổi chiều cháu sẽ về.

- Ừ, nhưng nhớ về trước khi bảy giờ tối. Ở ngoài buổi tối lạnh lắm đấy, để bị cảm lạnh lại khổ.

Korant gật đầu rồi đi vào phòng ngủ của nó, lấy cái áo thật ấm trong tủ đồ, rồi mặc vào rồi chạy một mạch thẳng đến nhà ông Razid.

Nó đứng trước nhà ông, thấy cửa trước không đóng. Korant đi vòng qua bên hiên nhà, nó nhìn thấy ông cụ đang cho mấy con gà ăn. Nó la lên:

- Ông Razid, cháu đến phụ ông dọn dẹp nhà cửa này!

Ông Razid nghe thấy tiếng của nó, ông đứng dậy, mắt nhìn thẳng phía trước, thấy Korant đang đứng vẫy tay bên ngoài, ông nói:

- Đến rồi hả? Đi, đi vô nhà ông cho đỡ lạnh.

Ông Razid dẫn nó vào bên trong nhà, ông đi lại kệ bếp, rồi lấy ra hai cốc cà phê, ông đưa một cốc cho Korant. Ông Razid chỉ tay vào đĩa thịt gà luộc, hỏi:

- Cháu ăn gì chưa? Nếu mà đói thì cứ lấy thịt gà đó ăn nhé.

Korant đưa hai tay lên cầm lấy cốc cà phê và nói:

- Dạ được rồi thưa ông, lúc sáng cháu đã ăn cả một tô thịt lợn hầm rồi, nên bây giờ cháu không cảm thấy đói.

- Thế cứ khi nào cháu đói thì cứ tự nhiên lại bàn lấy thịt ăn nhé.

Korant liền hỏi ông:

- Thế… bây giờ chúng ta bắt đầu vào việc dọn nhà chứ ạ?

Ông Razid suy nghĩ cái gì đó một hồi lâu, rồi ông nói:

- Khoan đã, cháu ngồi xuống ghế trước đi, ta có một vài chuyện cần hỏi.

Ông Razid đợi Korant ngồi xuống, rồi ông hỏi:

- Hôm nay cậu Palich của cháu đã ra đồng thu hoạch rồi phải không?

- Dạ đúng rồi ạ.

- Thế sao cháu không đi theo mà phụ một tay, để còn tranh thủ về sớm, không mắc phải tuyết rơi?

Khuôn mặt của Korant bỗng rất ủ rũ, rồi nó nói:

- Dạ… cháu đã xin cậu đi theo lúc sáng, nhưng do sâu bọ làm mất mùa nên cháu không cần phải đi theo giúp.

- Thật là tội nghiệp cho Palich, nó sống với ai cũng hiền lành, tốt bụng thế mà lại gặp phải xui rủi nhiều như vậy, mong sao thương vụ sắp tới sẽ diễn ra trót lọt như những gì nó muốn.

- Cháu cũng mong vậy!

- À… mà.. gã mặc áo kín đáo cùng với hành tung bí ẩn hôm qua vừa ghé nhà ông là ai vậy? Cho cháu biết với, mọi người ai cũng đều tò mò muốn biết cả.

Bỗng nhiên, ông Razid trở nên khó chịu, như thể ông rất ghét khi nhắc về hắn ta, ông nhíu mày, rồi thẳng thắn từ chối:

- Không được, hắn ta chẳng làm gì khiến mọi người phải bận tâm cả.

- Nhưng…

Ông Razid đột nhiên nổi giận, quát:

- Cháu có nghe ta nói không đấy?

- Dạ.. cháu xin lỗi.

Ông Razid bỗng im lặng như đang cố kìm nén cơn giận của mình, rồi ông nói tiếp:

- Ta nghĩ chúng ta nên bắt đầu việc dọn nhà. Cháu giúp ông dọn tầng trên cùng với phòng khách được chứ?

- Dạ được, nhưng trên lầu là thư phòng cùng với phòng của dì Selena phải không ông?

Ông Razid lặng người suy nghĩ một hồi lâu, Korant như biết ông đang suy nghĩ về điều gì, nó nói:

- Cháu.. xin lỗi ạ! Cháu vô tình nhắc lại nó.

- Không sao đâu, chuyện đã lâu rồi.

Ông nói với một giọng nghẹn ngào, đôi mắt thì cay xè. Korant nhìn thấy nhưng nó không biết phải nói gì tiếp theo, chỉ biết im lặng và thấu hiểu những gì đã xảy ra trong quá khứ của ông.

Ông Razid bảo Korant:

- Thôi, chúng ta bắt đầu vào công việc nào, để cháu còn về trước trời tối.

- Vậy cháu lên lầu dọn dẹp đây.

Nói xong, Korant đi thẳng ra trước phòng khác, rồi bước từng bước nhẹ nhàng lên cái cầu thang gỗ cũ, mỗi bước đi của Korant. Trên tay vịn bám đầy bụi và mạng nhện, có lẽ ông Razid chẳng bao giờ lên lầu cả.

Cái cầu thang gỗ đã cũ phát ra từng tiếng cót két sau mỗi bước chân. Korant lên lầu, trông nơi đây như một thế giới khác bên trong nhà ông Razid vậy, một không gian rộng lớn nhưng lại đầy bụi bặm.

Nhìn qua bên phải, là một bàn uống trà cùng một kệ sách nhỏ đặt kế bên, phía trước là một hành lang nhỏ, nó đi thêm vài bước trên hành lang, đến phòng của dì Selena, nó vặn tay nắm cửa, bước vào trong. Korant liền nhận ra điều kì lạ, là tay nắm cửa không hề có bụi bám lên trên mà nó trơn láng, sạch bong.

Korant nghĩ rằng một căn phòng đã bỏ lâu, không một ai dọn dẹp thì sẽ bị ẩm mốc hoặc rất nhiều bụi bẩn, nhưng căn phòng lại có mùi thơm dễ chịu của hoa, tất cả mọi thứ trong phòng đều ngay ngắn, sạch sẽ, rèm ở cửa sổ được kéo lại. Liếc mắt qua chiếc giường, nó liền nhìn thấy tấm hình của dì Selena được lồng khung kính kĩ càng, đặt một cách ngay ngắn trên chiếc gối nằm, rồi suy nghĩ: “Ông Razid hẳn là nhớ con của mình lắm! ”.

Căn phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ từ lúc nào và Korant cũng một phần không muốn thay đổi vị trí các đồ vật ở trong phòng, nên nó bước ra ngoài, đóng cửa lại một cách nhẹ nhàng.

Đi tiếp một đoạn nhỏ nữa, đến cuối hành lang, trước mặt nó bây giờ là một thư phòng rộng lớn, hàng chục các kệ sách lớn xếp thành từng hàng ngang, cách nhau bởi một lối đi lớn ở chính giữa.

Korant liền thốt lên:

- Nơi đây trông thật cổ điển.

Lướt qua từng kệ sách, Korant còn không thể đếm xuể hết số sách trên một kệ, huống chi là cả một thư phòng, nhưng lại chẳng hề sạch sẽ như phòng dì Selena, đầy mạng nhện bám ở trên và xung quanh phòng.

Korant đi lấy cây chổi cùng với cái giẻ lau có sẵn trên bàn ngay góc tường, rồi lau chùi thật kĩ lưỡng ở những nơi có bụi bẩn.

Korant vô tình lướt qua một dãy sách, rồi nó dừng lại, tay kéo ra một cuốn truyện cổ tích có tên “Ngôi làng tiên”. Korant không còn là đứa bé mà tin vào những câu chuyện phù phiếm, hư cấu như hồi bé, nhưng điều gì đó đã ngăn cản, thúc giục nó không được trả cuốn sách về kệ.

Korant bất lực, nhưng không hiểu lý do. Nó đành phải vứt chổi và giẻ lau xuống đất và đọc thử cuốn truyện “vớ vẩn” này. Korant đi lại cái ghế sofa bằng đệm, to đùng nhưng lại lủng một vài lỗ nhỏ bên trên, nó phủi phủi ghế rồi ngồi xuống.

Mở cuốn truyện cổ tích ra, điều làm nó bất ngờ là bìa của nó còn bị rời ra khỏi những trang truyện và nội dung bên trong thì chẳng liên quan đến cái tựa đề một chút nào cả!

Nó bĩu môi nhưng vì tò mò nên Korant đã mở quyển sách và nội dung bên trong.

“Bạn có tin vào phép thuật?

Phép thuật là thứ vô hình, nó luôn luôn tồn tại song song với thế giới con người trong hàng ngàn năm qua.

Nhưng phép thuật lại được đưa vào thế giới con người bởi một tên ma pháp sư cách đây vài thế kỉ trước, mục đích của hắn ta, là muốn dễ dàng sử dụng tà thuật, để san bằng những quân đội, đất nước và cuối cùng là tạo ra một thế giới như ý muốn của hắn.

Tuy hắn có tài trí, sức mạnh và năng lượng phép thuật nhưng con người không dễ dàng để hắn đạt được tham vọng của mình. Việc sáp nhập ma thuật và con người lại với nhau làm tạo ra nhiều câu chuyện thần thoại, cùng với các chủng tộc sinh vật kì bí…”

Đọc tới đây, Korant chợt nhận ra quyển sách đã bị mất phần còn lại không rõ nguyên nhân. Nó tức tối rủa lên:

- Trời!

Lật đi lật lại, nó nhận ra có một trang sách như được dán để che lại bìa sách, nó gỡ ra thật nhẹ nhàng. Trên đó là một mặt giấy, ghi chép hàng chục những câu thần chú.

- Những câu thần chú?

Korant đọc tựa đề phần bìa sách và thắc mắc, nó có nội dung: “Ngươi hãy tập trung ý nghĩ của bản thân, đọc câu thần chú thì phép thuật sẽ xuất hiện, hãy nhớ là phải có lòng tin tuyệt đối vào nó.”

Korant nghe theo quyển sách, nó nhặt cây bút trên mặt bàn, đưa ra trước mặt, rồi tập trung hết ý nghĩ của bản thân lại, nó đọc lên:

- Jajqia.

Căn phòng im lặng như tờ, chẳng có hiện tượng kì lạ gì xảy ra sau câu nói đó, nó quyết định thử lại một lần nữa:

- Jaiqia.

Vẫn không có gì xảy ra, Korant đang mất dần sự kiên nhẫn của mình, nhưng nó cố gắng hết sức làm lại một lần cuối cùng. Nó nhắm mắt, tập trung, dồn hết tâm trí vào đầu bút, rồi nói lên câu thần chú:

- Jaiqia.

Korant mở mắt ra, nó hốt hoảng khi thấy một sợi dây màu tím, trông giống như một luồng năng lượng hơn, nó nối vào một quyển sách nằm trên kệ. Korant cố gắng thử dùng tia năng lượng để đưa quyển sách lại gần nó hơn.

Korant tập trung hết ý nghĩ để kéo quyển sách lại chỗ nó đang ngồi. Quyển sách ngày càng gần hơn với nó, nhưng rồi lại rơi xuống sàn nhà vì Korant không có đủ sức để duy trì tia năng lượng đó.

Nó đưa tay rà từng câu thần chú từ trên xuống, để tìm một cái thật thú vị, và rồi cái nó chọn là một phép thuật khiến các sinh vật, kể cả con người bị tê liệt là trong vài giây cho đến vài phút, tùy thuộc vào linh lực trong cơ thể họ. Korant cố gắng ghi nhớ câu thần chú, nó lẩm bẩm trong miệng.

“Kqoalq”

“Kqoalq”

Bỗng nhiên ông Razid từ đâu xuất hiện, vỗ vai nó một cái, khiến cho nó giật bắn người, ngã ra sau chiếc ghế sofa. Ông Razid hỏi nó:

- Cháu đọc sách à?

Ông đưa mắt xuống nhìn quyển sách trên tay nó, rồi lắc đầu, nói tiếp:

- Cháu không nên đọc quyển này đâu. Cháu đọc được tới đâu rồi?

Korant bình tĩnh lại rồi trả lời ông, nhưng nó lập tức bịa ra:

- Dạ… chỉ mới mở ra xem thôi.

Ông kẹp phần sách vào bên trong bìa, rồi đóng lại một cách kĩ lưỡng, đem nó bỏ lại chỗ cũ, ông nói tiếp:

- Bên ngoài cũng đã gần bảy giờ tối rồi đấy. Cháu mau về để mợ Quatarin khỏi trông.

Korant nói:

- Còn về bữa tiệc? Cháu đã nói với cậu và mợ rồi, nhưng họ bảo phải tổ chức ở nhà ông. Ông thấy thế nào?

- Không sao đâu, như vậy thì chúng ta sẽ tổ chức tiệc vào hôm trước đêm giao thừa nhé. Đồng thời cháu giúp ông mời mọi người trong làng luôn được không?

- Để cháu lo việc đó cho ạ.

Nói xong, nó chào tạm biết ông Razid rồi ra về, trong lòng thì lại phơi phới vì học lóm được vài phép thuật.

Korant chạy thật nhanh về nhà mình cho kịp buổi tối, nhưng vẫn thắc mắc tại sao ông Razid lại lên đây nhanh như vậy và tại sao thư phòng của ông lại có những cuốn sách về phép thuật. Nó vặn tay nắm để mở cửa, rồi chào mợ Quatarin. Nó nói:

- Mợ cho con một chén súp với, con đói bụng quá!

Mợ Quatarin im lặng, rồi đặt chén súp lên bàn bảo nó:

- Mợ vào phòng ngủ trước đây, nhớ khóa cửa nhà cẩn thận đấy!

- Dạ vâng.

Đợi mợ đi vào trong phòng mình và chốt cửa lại, Korant lén lút đi ra đằng sau nhà mình, sử dụng thử phép gây tê lên cơ thể của một vài con gà.

Korant tập trung hết ý thức của mình, dồn vào đầu cây bút hồi sáng nó sử dụng, rồi đọc lên:

- Kqoaql.

Con gà vẫn cứ tiếp tục hoạt động ban nãy của nó. Korant cố gắng làm lại lần thứ hai, thứ ba, thứ tư nhưng kết quả vẫn không có gì thay đổi, cậu bé đã mất đi sự kiễn nhân cũng như sự tập trung. Quá mỏi mệt, Korant thở dài một cái rồi quay lưng đi vào nhà. Nó chốt cửa ngoài thật kĩ lưỡng rồi vào phòng. Chưa đầy năm phút, Korant đã ngủ say như chết!
 
Chương VII: Những ngày cuối năm

Buổi sáng thứ ba từ khi Korant về nhà, trời bắt đầu xuất hiện tuyết rơi, nhưng không quá nhiều. Nó cầu mong cho trời đừng đổ tuyết lớn để cậu Palich có thể về nhà thật sớm.

Nó đi ra bếp, lấy tay bốc mấy miếng thịt quay ăn cho đỡ đói, xong rồi đi ra ngoài kho của nhà mình, chuẩn bị một số thứ cần thiết cho thương vụ và quét dọn thật sạch sẽ như cậu Palich đã yêu cầu hôm trước.

Korant mở cửa kho, mùi bụi bẩn và ẩm mốc làm cho nó phải hắt hơi bốn lần liên tiếp, làm cho mũi của Korant ửng đỏ lên. Nó mở cái khăn đậy lên, bên dưới là chiếc xe kéo cũ kĩ, mà cậu Palich đã dùng gần được mười năm. Korant từng bảo cậu mua một chiếc xe mới nhưng cậu bảo như vậy rất lãng phí nên không mua nhưng Korant thừa biết do là gia đình không có đủ tiền.

Nó đẩy chiếc xe ra bên ngoài để tiện việc lau chùi. Đồng thời, Korant tìm một vài sợi dây để nối xe và ngựa lại với nhau, sau đó cho ngựa ăn và kết thúc công việc trước buổi trưa.

Chiều hôm đó, trời đổ tuyết mạnh, kèm theo mưa lớn, trắng xóa cả đường đi. Do vậy, có thể cậu Palich sẽ không thể về được trong vài hôm tới, mợ Quatarin lo lắng nói với Korant:

- Thời tiết như thế này chắc ông ta không về được rồi. Hi vọng họ sẽ không gặp nguy hiểm.

Korant an ủi:

- Mợ đừng lo lắng quá, họ không khởi hành vào hôm nay, nên sẽ không gặp nguy hiểm đâu.

Mợ Quatarin cũng đỡ lo lắng phần nào, họ ăn tối với món thịt quay rồi đi ngủ.

Ngày thứ bảy từ hôm Korant đi săn về, những trận gió lớn cũng tuyết rơi nhiều hơn những hôm trước. Xung quanh nhà nó trắng xóa, tuyết bám trên cửa sổ, mái nhà, ngoài đường bây giờ vắng tanh, ai ai cũng nấp vào trong, châm củi vào bếp lửa để sưởi ấm. Người ta chỉ bắt buộc ra ngoài để lấy củi và cho gia súc ăn, vì ai cũng sợ bị lạc trong những trận gió ào ạt.

Ở tại cánh đồng, trong căn nhà nhỏ được dựng lên để trú tạm cho mỗi lần thu hoạch, cậu Palich cùng ba người còn lại ngồi bên lò sưởi uống trà và thảo luận cách quay trở lại trong trời tuyết để kịp thương vụ tới.

Ông Trmit nhấp một ngụm trà, rồi hỏi ý kiến mọi người:

- Thế khi nào chúng ta quay về Havardor? Tôi còn phải rèn vài món đồ cho bọn khách nữa, nếu hôm nay hoặc mai không về, tôi e là không kịp.

Sars nói lên:

- Nhưng tuyết rơi nhiều thế, cháu nghĩ không nên về ngay lúc này đâu ông.

Fplo cũng tỏ ra đồng tình với ý kiến của Sars. Ông Trmit bực tức:

- Nếu bọn bây không về thì tự mình tao về, còn Fplo, cháu có thể về sau nếu muốn, mấy món vũ khí đó tao kiếm được bộn tiền đấy.

Cậu Palich lên tiếng hòa giải:

- Bác bình tĩnh đi, tuyết rơi ở bên ngoài rất nhiều, cháu nghĩ là không an toàn đâu.

- Hay là chúng ta đợi xem thời tiết buổi chiều hôm nay thế nào, nếu trời đổ tuyết ít lại thì ta về.

Cả ba người họ đều đồng tình với cậu Palich. Họ bắt đầu thu xếp đồ đạc, chất sẵn lên xe ngựa. Buổi chiều hôm đó, tuyết cũng đã giảm đi rất nhiều, bốn người họ lên ngựa, rồi khởi hành quay về làng.

Con đường đi bám đầy tuyết, dày chừng một tấc rưỡi, làm cho những con ngựa chẳng thể nào đi nhanh hơn được. Một cơn gió nhè nhẹ thổi ngang qua bọn họ, dù tất cả đều đã mặc hơn ba lớp áo nhưng họ vẫn lạnh thấu xương, ai nấy cũng rùng mình. Sars lên tiếng:

- Tuyết dày đặc như thế này, cháu nghĩ ngựa không đi nhanh được, nhưng nếu trời càng tối thì càng dễ bị lạc nhau, cháu nghĩ mình nên quay lại.

Cậu Palich nói:

- Không sao đâu, cháu đừng lo lắng quá.

Rồi họ cho ngựa di chuyển với tốc độ nhanh nhất có thể về làng Havardor.

Buổi tối hôm ấy, khi Korant ra bên ngoài lấy củi đem vào nhà sử dụng, nó nghe thấy tiếng lộc cộc của móng ngựa không xa lắm, nó liều lĩnh bước ra trước cửa, xung quanh tối đen như mực. Tiếng chân ngựa bỗng dừng lại gần nó, cậu Palich ngã bịch xuống đất, Korant chầm chậm lần tới nơi phát ra tiếng ngã, nó đỡ cậu Palich lên lưng rồi đưa vào bên trong nhà.

Tay cậu lạnh ngắt, cứng đơ như bị đóng băng, trán cậu Palich nóng hổi, nó đặt cậu lên ghế gần lò sưởi, nó lấy cái khăn và pha một cốc trà đường cho cậu.

Sau đó, Korant chạy ra bên ngoài, dẫn con Rough vào trong chuồng, nó cất lúa mì vào trong kho, đặt trên xe kéo, lấy khăn đậy lại rồi chạy thật nhanh vào nhà để thoát khỏi cơn rét.

Không lâu sao đó, cậu Palich tỉnh dậy, Korant hỏi chuyện cậu:

- Chuyến đi không ổn hả cậu?

Cậu Palich cố gắng nhớ lại những gì đã xảy ra trên đường về, rồi trả lời nó:

- Buổi chiều hôm nay, khi cả bốn người đang trên ngựa về làng, thì gió đột ngột chuyển hướng, ngược với hướng bọn ta đang đi và mạnh lên rất nhiều lần. Các con ngựa bỗng nhiên trở nên hoảng loạn, nó bắt đầu chạy với tốc độ nhanh nhất, không khí lạnh cùng với việc ngược hướng gió làm ta không thở được, sau đó cậu ngất đi.

- Còn sau đó có chuyện gì xảy ra nữa thì cậu chịu, nhưng lúc nãy cháu có thấy ba người bọn họ không?

Korant đáp lại:

- Dạ không, cháu nghĩ mình nên đi tìm họ ngay bây giờ.

Cậu Palich đứng dậy giữ tay Korant lại, nói:

- Không được, bây giờ bên ngoài rất nguy hiểm. Nếu chúng ta không khéo, có thể sẽ mất mạng ở ngoài đó.

- Nhưng…

- Đây là lệnh, không được ra ngoài bây giờ!

Korant miễn cưỡng gật đầu, chưa bao giờ cậu Palich lại nghiêm khắc với nó như vậy. Sau cùng, nó chúc ngủ ngon cậu rồi đi vào phòng ngủ.

Ngày hôm sau, sau khi Korant đi chơi với bọn trẻ con trong làng về, cũng an tâm một phần vì cả ba người còn lại đã về nhà an toàn, vừa mới mở cửa, nó nghe thấy những tiếng nói chuyện rôm rả phát ra từ bên trong. Gồm ba người, một của cậu Palich, một của mợ và còn một giọng nói rất quen thuộc nhưng Korant không thể nào hình dung được.

Nó mở cửa bước vào, hỏi:

- Nhà có khách hả cậu?

Nó nhìn thẳng vào người đang ngồi cạnh cậu Palich, một dáng vẻ rất quen thuộc, mặc chiếc áo in quốc hiệu của Naoorlogs, quần bò, cùng một đôi ủng. Korant liền liên tưởng tới hình ảnh quân lính triều đình, rồi nó la lên:

- Anh Cial!

Đây là lần đầu tiên nó gặp lại Cial sau ba năm, nó chạy tới ôm Cial. Hai người trò chuyện vui vẻ với nhau, Korant kể cho Cial nghe về những chuyến đi săn của nó, còn Cial thì kể về những lần đi đánh trận, ra khỏi biên cương của Naoorlogs, họ nói về những niềm vui, nỗi buồn cho đến tối.

Cuối cùng, ngày tổ chức bữa tiệc cũng đã đến, sáng sớm hôm đó Korant đã đi đến từng ngôi nhà trong làng, để mời mọi người.

Căn nhà đầu tiên nó đến là của lão Wabole, một gã trung niên to tướng, hai bắp tay cuồn cuộn, bộ râu mọc xồm xoàm ở dưới cái hàm lực lưỡng, lão thấy Korant liền hỏi:

- Đến mua thịt à?

- Dạ không, cháu làm gì có tiền.

- Thế mày đến đây có việc gì, bán thịt mày săn được thì miễn nhé.

- Cháu muốn mời ông tới dự tiệc cuối năm vào tối nay ở nhà ông Razid, ông đi được không?

- Được, nhưng ở nhà ông ta thì không, lão già Razid đấy chẳng bao giờ mang lại điều gì tốt đẹp cả. Tao không đi đâu.

Wabole từ chối nó một cách thẳng thừng nên Korant đành chào lão rồi về, nó không hiểu tại sao ai cũng xua đuổi ông Razid, rồi nó đi qua từng căn nhà trong làng Havardor để làm việc tương tự, nhưng rồi cũng chỉ mời được mỗi cô Harley, ông thợ rèn Trmit, anh Sars.

Buổi tối hôm đó, vào đúng bảy giờ tối, tất cả đã có mặt tại nhà ông Razid, nhưng Korant nhanh chóng nhận ra bữa tiệc không vui như nó và ông mong đợi.

Nó đem ra mấy đĩa thịt quay lạnh ngắt cùng vài cốc bia có sẵn ở nhà ông Razid. Mấy cái bóng đen phản chiếu trên tường, cũng chỉ lác đác được bảy bóng người ngồi trên bàn ăn trong bếp nhà ông Razid.

Không khí ngay bàn ăn bỗng trở nên im lặng, cô Harley mới cố tìm chủ đề cho mọi người cùng nói chuyện:

- À Cial này, ở triều đình cháu phải làm những việc gì?

Một câu hỏi thăm thông thường, nhưng tại đà cho mọi người có thể đặt ra thêm nhưng câu hỏi tiếp theo.

Ngồi được một lúc lâu, bỗng Korant thấy ông Razid bước ra bên ngoài hiên nhà, nó cũng lật đật chạy theo, tuy không rõ những nó thấy được nỗi buồn qua nét mặt của ông, Korant lên tiếng hỏi:

- Ông làm sao thế?

- Ta không sao cả.

- Có chuyện gì mà tại sao mọi người trong làng cứ tránh xa ông vậy?

- Chưa đến lúc cháu phải biết lý do đâu.

- Cháu đã mười sáu tuổi rồi, có phải là con nít nữa đâu mà ông không cho cháu biết.

- Vẫn chưa đến lúc cần thiết, Korant ạ

Ông Razid nói tiếp:

- Korant này, cháu có muốn ăn thử cá không?

Korant cười rồi nói:

- Dạ muốn.

- Thế chúng ta sẽ bắt đầu chuyến đi săn sau khi cháu trở về từ thương vụ. Được chứ?

Nó vui vẻ gật đầu đồng ý, một nụ cười hiện rõ trên môi. Sau đó họ quay trở vào nhà, nói chuyện với mọi người cho đến khi bữa tiệc kết thúc.
 
Chương VIII: Harpln

Buổi chiều ngày thứ hai của năm mới, thời tiết đã tốt hơn, tuyết trên con đường cái đến Harpln đã tan dần. Suốt buổi tối hôm đó gia đình cậu Palich háo hức chuẩn bị đồ đạc cho chuyến đi, quần áo, một ít lương khô và vớt vét một chút đồ có giá trị trong nhà để đem bán.

Mặt trời chưa kịp lên, thì cả nhà đã thức dậy để chuyển hoa màu lên xe, chuẩn bị ngựa, dây,… Cậu Palich bỏ hết tiền dành dụm vào chiếc túi da, rồi đeo lên ngay thắt lưng.

Sau bữa sáng qua loa với chút thịt nguội cùng nước hoa rnakan. Cậu Palich, anh Cial và Korant lên xe ngựa và bắt đầu chuyến đi đến Harpln. Tuyết tan giúp cho xe ngựa dễ dàng di chuyển hơn nhiều lần. Đoạn đường từ Havardor đến Harpln cách gần một trăm hai mươi cây số, do vậy trên xe cũng đã có đủ lương thực để họ dùng trong một hay hai ngày do cậu chỉ để cho con Rough đi bộ.

Bên trong chiếc xe kéo là một đống lúa mì cùng với một ít cà chua thu hoạch được trong hôm trước, chúng vẫn còn tươi rói. Korant đang ngồi bên trong, người ngã vào đống hoa màu, trên tay cầm theo quyển sách yêu thích của nó, vừa đi vừa đọc để giết thời gian, còn Cial thì đã đánh một giấc cho khỏe người. Chỉ có mỗi mình cậu Palich là phải tập trung điều khiển con Rough, vừa xem bản đồ để đi được đến Harpln sớm nhất có thể.

Họ dừng lại để ăn trưa, mặt trời đã lên tới đỉnh, nhưng mây bay dày đặc cả bầu trời, khiến cho không khí trở nên mát mẻ, dễ chịu hơn. Cả ba người lấy gò mên thức ăn ra, Korant đã chán ngán với việc cứ phải ăn thịt lợn hằng ngày, nó chả thế ăn nổi phân nửa phần thịt trong khi cậu Palich và anh Cial xử gọn một cách ngon lành. Họ dừng lại nghỉ trưa một chút, rồi tiếp tục lên đường.

Đến buổi trưa hôm sau, họ đến được Harpln - một thị trấn nhỏ luôn rộn ràng tiếng cười nói. Ở hai bên đường, những thương gia, lái buôn dựng lều trại, để đồ đạc, xe, ngựa để ngổn ngang từ đầu thị trấn đến những căn nhà cuối cùng với đầy đủ màu sắc nổi bật. Đằng sau những lều trại của bọn thương gia là những quán ăn, quán rượu đầy ấp tiếng nói, cười.

Đám đông tụ tập quanh trước những gian hàng của bọn thương gia dọc hai bên đường chính, họ đang xem các món hàng mà họ bày bán năm nay. Đây là một nơi buôn bán mà hầu hết là để trao đổi hàng hóa giữa bọn thương nhân phương đông, người dân Havardor chỉ lác đác vài người. Tiếng ngựa hí vang trời. Tiếng bánh xe lộc cộc đến Harpln ngày càng nhiều hơn, cùng hương thơm của thức ăn lan tỏa trong không khí.

Cậu Palich cho dừng xe và cột con Rough lại, cậu lấy một số tiền đưa cho Korant và nói:

- Cháu và Cial đi xung quanh chơi đi, việc buôn bán cậu tự lo được, nhưng nhớ đến quán của Atrics đúng giờ để ăn chiều đấy.

Korant ngơ ngác nhìn cậu Palich rồi hỏi:

- Mấy giờ?

- Đúng sáu giờ!

Cậu Palich trả lời nó với một giọng gắt gỏng.

Korant quay qua nhìn Cial rồi mỉm cười đắc ý, rồi nó đẩy Cial qua từng gian hàng trên đường. Bọn thương nhân phương đông bán đầy đủ các loại hàng hóa trên đời này, hương liệu từ phương đông, những hàng vải luôn được phụ nữ xúm xít vây quanh, những vật dụng cần thiết cho trồng trọt như cuốc, xẻng, một số loại hạt giống mới được bọn lái buôn tìm ra, thu hút cánh đàn ông lại xem thử và mua chúng đắt như tôm tươi.

Korant chỉ tay đến chỗ ông Horn bảo:

- Em định đến chỗ ông Horn chơi, anh đi cùng không?

Cial nhăn nhó nhìn nó, rồi nói:

- Không, toàn trò tầm phào! Tao đi đây có việc.

Korant đành lủi thủi một mình đi đến chỗ ông. Nó vừa đi vừa ngó vào bên trong lều, trại của bọn thương gia, lái buôn. Bên trong toàn là hàng hóa và vật dụng lỉnh kỉnh, chỉ chừa lại một chỗ nằm vừa đủ bên trong. Nó để ý gương mặt của bọn họ, đa số đều hốc hác, trông rất mệt mỏi, không hề còn những nét vui vẻ cởi mở như năm rồi, mà là một sự khó chịu, cáu gắt, đàn ông thì đeo luôn cả vũ khí sau lưng, vắt cả dao găm ngay thắt lưng. Dường như việc làm ăn của họ không được thuận lợi như năm ngoái.

Nó tới trước cửa hàng của ông Horn, một chỗ làm ăn nhỏ với những ván gỗ bạch dương đống tạm bợ lên, bên trong là các trò chơi quen thuộc cho lũ trẻ con. Ông Horn đang lau bàn, khi thấy Korant, ông liền ngẩng lên bảo nó:

- A, Korant, gặp lại cháu ông vui lắm!

Ông Horn nhìn nó với một nụ cười rạng rỡ, trên gương mặt nhăn nheo của một ông cụ hơn tám mươi tuổi, cùng mái tóc bạc dài đến tận lưng, râu thắt bím, thả dài trước ngực, áo trùm màu trắng dài từ đầu đến chân.

Nó hỏi ông:

- Dạo này ông vẫn khỏe chứ?

- Vẫn khỏe, thế còn Palich với Cial, hai đứa nó có đi với chau không?

- Dạ có, nhà của cháu đến để bán hoa màu. Chẳng gì có thể giữ chân cháu và Cial ở nhà lúc này

Ông mời nó vào bên trong lều, lấy ấm trà cùng hai cái tách, rót trà từ từ vào tách rồi đưa cho Korant. Nó đưa tay lấy và hỏi:

-Qua nay khách tới chỗ ông có nhiều không?

Một nỗi buồn bỗng xuất hiện trên gương mặt của ông, ông châm tẩu thuốc bằng hộp mồi lửa rồi trả lời nó:

- Như cháu thấy đó, chỗ của ông vắng hoe. Từ hôm qua tới nay, chẳng thấy bóng một đứa con nít nào cả, đa số là thanh thiếu niên trở lên.

- Cháu cũng thấy thế. Vậy giờ ông định như thế nào?

- Chưa biết, nhưng chắc năm sau ông và cháu sẽ không còn gặp nhau ở đây được.

- Ông không làm nữa ư?

- Đúng vậy.

Korant đã biết ông từ bé, khi nó mới có bảy tuổi, cũng đã chín năm trôi qua, cổ họng nó bỗng chốc nghẹn lại.

Korant cố gắng kìm lại, nó đứng dậy, mỉm cười với ông và nói:

- Chắc cháu chỉ được chơi những trò này một lần nữa quá.

Ông Horn gật đầu, bảo nó:

- Miễn phí cho cháu đấy.

Korant chơi thỏa thích tất cả những trò chơi quen thuộc mà nó đã chơi hơn chục lần. Chỉ còn gần một tiếng nữa là đến bữa chiều, nó chào tạm biệt ông rồi đi đến một quán nước ở dọc bên đường chính của thị trấn.

Nó ngồi xuống, gọi một ly sữa nóng. Bàn bên cạnh là hai tên lái buôn, mặc trang phục lạ lẫm mà Korant chưa từng thấy lần nào, nó chắc chắn rằng bọn chúng ắt không đến từ hướng đông. Nó cố lắng nghe cuộc trò chuyện của bọn chúng.

Tên thứ nhất đang cố nhồi nhét cái thân hình quá khổ của mình trên chiếc ghế gỗ, tay vuốt bộ râu dưới cằm, nói:

- Thế nhà vua sẽ xới tung thị trấn này lên à? Ông nghe ở đâu cái tin nhảm nhí đấy vậy?

Tên kế bên lên tiếng:

- Chính tay tôi nghe từ bọn lính trong khu này. Áo bọn nó có cả quốc hiệu của triều đình, nếu mà bọn lính ở thành Summrta không biết tới Harpln thì làm gì tới lượt chúng ta đến đây mà buôn bán. Sớm muộn gì nơi đây cũng tan hoang như làng mình mười sáu năm trước.

Tên mập liền đáp trả:

- Sao chúng không biến nơi đây thành một nơi buôn bán lớn, cùng với một lượng lớn dân buôn từ phương đông? Nhưng làm sao triều đình biết được nơi này và cả khu làng Havardor kia.

Hắn tỏ vẻ khó chịu với mấy câu hỏi của gã béo, liền trả lời với một giọng gắt gỏng:

-Sao anh ngây thơ thế? Đất anh sống là nước Naoorlogs, là địa bàn của lão, chứ không phải là đất nước khác. Bọn triều đình chỉ muốn vụ lợi cho riêng chúng nó mà thôi. Chúng còn có thể giết hơn hai mươi nghìn người dân chỉ để bắt một đứa trẻ sơ sinh cơ đấy.

Gã béo giơ cái ngón trỏ ngay mặt hắn, rồi run run nói:

- Này, này…mấy cái đấy không đùa được đâu? Lũ tay sai triều đình nghe là đi đời đấy! Cơ mà, chúng ta không thể chống lại chúng à?

Tên kế bên châm cái tẩu thuốc, rồi bập một hơi thuốc dài, rồi nói:

- Không, đã từng có vài nhóm nhỏ lập ra để chống lại triều đình nhưng đều bị đánh bại trong vài ngày. Có tin đồn rằng Osward là ma pháp sư, nhưng tôi không tin.

Nghe tới đó, Korant đánh đồng cậu chuyện này là vớ vẩn, nó không quan tâm đến chuyện của chính trị cho lắm và cũng vì Cial là người là cho triều đình nên nó không đời nào tin mấy cái câu chuyện vô lý như vậy.

Korant trả tiền rồi bắt đầu đi đến quán ăn. Trên dọc đường, nó ngắm nghía rồi đánh giá từng món đồ như một chuyên gia, mặc cho trong túi chỉ có vài đồng lẻ. Nó cũng vui vẻ chuyện trò với dân buôn, hỏi về mấy chuyện mà hai tên lạ mặt nói chuyện, nhưng rồi ai cũng chửi nó khùng, chẳng ai nghe về chuyện đó cả.

Đến xế chiều, nó mua cái bánh nướng, nóng hổi, thơm lừng mùi mật ong. Sau nhiều giờ đứng trong không khí lạnh, cái bánh nướng mới trở nên khoái khẩu làm sao. Nó ngồi bên vách tường, thưởng thức cái bánh, chợt nó thấy bên trong hẻm, bóng dáng của anh Cial đang nói chuyện với ai đó, nhưng vì không tò mò lắm nên nó bỏ qua.

Korant cắm cúi đi đến quán ăn của bác Atrics vì sợ trễ giờ. Quán của ông nằm ở trung tâm của thị trấn, một quán ăn nhỏ hẹp và cũ kỹ. Nó mở cửa bước vào, trong quán nóng hừng hực, mùi thức ăn và mùi mỡ của nến bốc lên thành những luồng khói rồi bay lên cao. Bên trong quán chật cứng, sàn nhà thì bóng lộn do đi lại nhiều năm, bàn ăn nào cũng có từ hai tên lái buôn trở lên, ôm xồm tiếng trò chuyện, cười đùa.

Korant cố gắng luồn lách qua từng bàn ăn để đến được quầy, nơi mà bác Atrics đang đứng, thân hình lão ta gầy nhom nhưng lại cao nghễu nghện. Lão đang tíu tít tiếp khách, hết người này đến người kia. Korant phải đứng tại đó, đợi Atrics xong việc rồi mới hỏi:

- Cậu cháu chưa đến hả?

Atrics đang uống nước, thơ thẩn quay mặt sang nhìn nó, một lúc lâu sau mới trả lời nó:

- Chưa. Cháu ngồi đây đợi tí đi. Có muốn ăn món gì không?

Korant mở cái thực đơn ra xem thử. Chẳng có món nào nó muốn ăn thử cả. Nó ngẩng lên bảo Atrics:

- Cho cháu cốc nước là được rồi.

Atrics đặt cốc nước xuống trước mặt nó rồi bảo:

- Bác đi làm việc tiếp nhé.

Vừa nói dứt câu, lão liền đi ra sau quầy rồi tiếp tục công việc của mình.

Korant ngồi đó, lưng dựa vào trong quầy, quan sát mọi người bên trong quán ăn. Hầu như, tên lái buôn nào cũng toàn bàn những chuyện trên trời. Có tên thì ngồi kể về thị trấn mà hắn đang sống, rồi ba hoa về gia cảnh, của cải trong nhà, bảo rằng bọn chúng là những người giàu có nhất vùng trong khi đồ đạc thì cũ mèm, quần áo thì vá mấy lỗ to đùng hay là ba hoa về chặng đường bọn chúng đến đây, nguy hiểm và gian khổ, gặp những con quái vật to đùng chủ yếu là để bán mấy cái như răng nanh, sừng của mấy con vật kì lạ. Korant ngồi đó lắng nghe nhưng ai đời lại đi tin vào mấy câu chuyện vớ vẩn như vậy.

Nửa tiếng sau, khách bên trong quán đã vắng hơn lúc trước, cậu Palich và anh Cial bây giờ mới đến, bác Atrics cũng đã rảnh tay để mà tiếp đãi cả nhà. Một bữa ăn tối thật thân mật, ấm cúng và thịnh soạn, món ăn ngon, rượu đắt tiền cộng thêm bầu không khí náo nhiệt vui vẻ, tuyệt vời nhất là bác Atrics sẽ thanh toán tất cả cho bữa ăn hôm nay.

Buổi tối, trăng đã lên cao, các cánh buôn bắt đầu dọn dẹp, việc buôn bán chuyển vào bên trong lều, những cánh buôn thì ở lại thêm một ngày để tiếp tục buôn bán, nhưng nhà cậu Palich quay về Havardor do đã bán hết tất cả hoa màu và thu được một số tiền nhỏ đủ để trang trải cuộc sống.

Cả nhà dọn dẹp đồ đạc, tháo dây cho con Rough và lên đường trở về Havardor trong thời gian ngắn nhất.
 
Chương IX: Đường đến sông Yiwall.

Buổi sáng, Korant bước ra khỏi phòng trong bộ đồ đi săn quen thuộc của nó, đeo chiếc ba lô nặng trịch trên lưng. Bên trong là những vật dụng cá nhân và lương thực để ăn dọc đường. Nó cầm trên tay tầm ba chục mũi tên, bỏ đầy vào lọ tên, rồi vắt lên bên phải thắt lưng. Nó lấy thêm con dao găm, nhét vào bên còn lại.

Korant xỏ đôi ủng da vào chân rồi bước ra bên ngoài, ông Razid đang đứng trước cửa đợi nó cùng với hai con ngựa, tay ông cầm theo hai cái cần câu.

Họ leo lên trên ngựa rồi phóng đi thật nhanh, chỉ trong thoáng chốc đã rời khỏi Havardor.

Korant ngồi bên trên ngựa và nhìn ngắm cảnh vật xung quanh. Từ những phong cảnh, con đường, loài cây, đâu đâu cũng lạ lẫm. Do vậy, nó luôn phải cho con Hamuel chạy sát theo ông Razid vì sợ lạc đường.

Không khí những ngày đầu xuân vô cùng mát mẻ nhưng lại lạnh hơn tại Havardor và Harpln, những luồng gió se lạnh liên tục thổi về phía đông, Korant tranh thủ thưởng thức món điểm tâm của nó trên yên ngựa, bên tay trái là dãy núi Parolance hùng vĩ, cao chót vót, đây là nơi duy nhất ở tại Naoorlogs đóng băng quanh năm, chưa một ai từng dám mạo hiểm chinh phục nó. Trên đường còn lỏm chỏm mấy bãi tuyết nhỏ, hoặc là tuyết trắng bám đầy trên những tảng đá lớn.

Korant không biết đường đi còn bao xa, nhưng nó bắt đầu cảm thấy nhức mỏi các cánh tay và bắp chân do ngồi trên ngựa quá lâu và cũng ngạc nhiên khi ông Razid chẳng thèm nói gì. Nó cố cho con ngựa đi nhanh hơn để có thể nói chuyện với ông nhưng con ngựa không nghe theo nó, Hamuel nhổng phần thân mình lên trên, hí lên một tiếng vang trời, sau đó nó hất Korant ngã lăn đùng xuống đất.

Ông Razid ngoái lại nhìn nó, rồi kéo con Briglis dừng lại, ông hỏi nó:

- Sao đấy?

Korant đứng dậy, đầu óc của nó chao đảo vì cú ngã vừa rồi, nó đưa tay phủi bụi bám trên người, rồi trả lời ông:

- Cháu định chạy nhanh hơn để nói chuyện với ông, nhưng con Hamuel không chịu hợp tác.

- Trời ạ!

Ông Razid thốt lên vì sự ngây ngô của nó, ông nói:

- Sao cháu không la lớn lên?

Ông nói tiếp:

- Thế muốn nói gì với ta?

- Cháu định kêu ông dừng lại nghỉ chút, cơ tay và đùi của cháu mỏi quá!

Ông Razid nhăn mặt, nếp nhăn xếp thành nhiều lớp trên trán của ông, càu nhàu:

- Trai trẻ mà thế à! Mới chỉ ngồi trên ngựa bốn tiếng liền mà đã than thở lên xuống. Ráng đi! Đi thêm chừng ba tiếng nữa là đến thị trấn Uniq rồi, cháu có thể nghỉ ngơi thoải mái.

Nhưng do Korant cứ tiếp tục than vãn, ông Razid đành chấp thuận yêu cầu của nó đề ra, họ tìm một chỗ khô ráo dưới gốc cây thông để ăn trưa và nghỉ ngơi. Bữa trưa chán ngắt với bánh mì và một chút bơ, chủ yếu là lót bụng để tiếp tục lên đường.

Trăng đã bắt đầu lên cao, sương mù dày đặc, xung quanh mù mịt, ông Razid và Korant chẳng còn có thể nhìn rõ để đi tiếp được, nhưng họ cứ tiếp tục đi thẳng theo hướng cũ, từ từ, một thị trấn lớn, với những ánh lửa rực rỡ dần hiện ra dưới làn sương trắng xóa đập vào ánh mắt và giải tỏa được sự mong đợi của Korant.

Gần mười giờ ngồi trên yên ngựa, chân nó cứng đơ. Cuối cùng nó cũng đã đến được Uniq, một thị trấn tấp nập, đông đúc và rộn rã trong tiếng cười đùa của người dân, nơi đây lớn hơn Harpln rất nhiều lần, từng ngôi nhà xếp cạnh nhau tạo thành nhiều dãy với đầy đủ màu sắc.

Họ cho ngựa dừng lại bên đường, Korant hỏi:

- Bây giờ sao đây ông?

Ông Razid suy tính một hồi, ông trả lời nó:

- Đi ăn trước đã… À, ta tính thế này, ở thị trấn có rất nhiều quán rượu, bọn họ có bán cả thức ăn và còn cả phòng trọ. Vậy nhé?

- Tùy ông thôi.

Korant và ông Razid kéo hai con ngựa, đi từ từ vào thị trấn trong bộ quần áo lấm lem bụi bặm.
 
Chương X: Chuyện thời thiên cổ

Ông Razid và Korant đứng trước cửa quán rượu Epoald, chỗ đắt khách và nổi tiếng nhất của Uniq, bên trong lúc nào cũng chật kín người, Korant hỏi ông:

- Chúng ta vào đây chứ?

- Không, ta ghét những chỗ ồn ào. Ở cuối thị trấn, có một quán rượu tốt hơn. Theo ta!

Họ dắt ngựa đi tới cuối thị trấn, rồi dừng lại phía trước một quán có tên là Droen, không được nổi tiếng lắm, bên trong chỉ có ba bốn người.

Korant đẩy cửa bước vào trong, chủ quán đặt tờ báo xuống bàn, kéo kính xuống và đưa cặp mắt lướt nhìn bên trên đôi kính. Ông Razid lên tiếng hỏi:

- Quán có phòng trọ qua đêm không?

Chủ quán vui vẻ trả lời lại:

- Có chứ, có chứ! Ông cần mấy phòng?

- Một thôi, giá cả như thế nào?

- Rẻ thôi, hai mươi nhăm đồng một ngày.

Chủ quán hỏi tiếp:

- Ăn uống gì không?

- Được rồi, cho tôi hai cốc bia tươi, hai đĩa đậu rán và thịt quay.

- Có ngay đây!

Ngay lúc đó, từ ngoài cửa, một đám đông tầm mười người bước vào, làm mất đi bầu không khí yên lặng bên trong quán.

Một tên lạ mặt đi đến quầy, ngồi xuống cạnh Korant, những tên còn lại thì ngồi tại bàn, hắn ta mặc chiếc áo thợ săn nhưng không gài những cúc áo bên trên, để lộ ra bộ ngực vạm vỡ, hai bắp tay cuồn cuộn, tóc dài tới hết lưng. Kẻ lạ mặt đang mang theo một thanh kiếm đằng sau chiếc áo choàng, trong khi người dân ở Uniq thì chẳng bao giờ mang theo vũ khí bên người cả, ngoài trừ vài thứ cần thiết để đi săn.

Kẻ lạ mặt ngồi đấy, bất động và im lìm. Chủ quán trong bếp bước ra, trên tay là bia tươi, hai đĩa đậu rán cùng thịt quay thơm lừng, ông tỏ vẻ khó chịu, hỏi kẻ lạ mặt:

- Uống gì đây?

- Bia.

Kẻ lạ mặt trả lời, giọng của hắn nhão nhợt, rất khó nghe. Chủ quán có vẻ dè chừng với những kẻ này, ông đem cốc bia bằng gốm đặt xuống trước chỗ kẻ lạ mặt đang ngồi và trước cả mấy tên đi chung với hắn. Kẻ lạ mặt nói tiếp:

- Tôi đang cần vài phòng trọ qua đêm.

- Không còn, tìm ở quán khác đi.

Ông Razid nhận ra được giọng nói của hắn giống với những người đến từ Taorcl, vùng đất của những tên khó ưa luôn đi săn tìm những vật quý hiếm, có vẻ mọi người cũng nhận ra nhưng trừ Korant, trông nó chẳng khác gì một thằng nhà quê.

Kẻ lạ mặt cố gắng xin xỏ:

- Nhưng bọn tôi muốn ở đây hơn.

- Không còn phòng nữa, đi mà tìm ở Epoald hay Inotris ấy.

Chủ quán từ chối kẻ lạ mặt với giọng điệu khó chịu.

- Tôi sẽ trả tiền!

Kẻ lạ mặt khẳng định nhưng giọng nói hắn không tự tin cho lắm.

Một gã trung niên đứng dậy, thân hình lão béo ú, bộ ria mép đen ngòm, lão lên tiếng nhạo báng kẻ lạ mặt:

- Cút đi! Chẳng có chỗ nào chứa dân Taorcl rác rưởi đâu.

- Ngươi có nghe thấy không, đồ khốn?

Gã béo đang ngồi ở bàn cạnh cửa sổ cùng với hai người bạn, bọn họ chẳng hề rời mắt khỏi bọn săn báu vật kể từ lúc họ vào quán.

Kẻ lạ mặt ngồi đó, nín thin, hắn cố gắng lờ đi những lời nói vừa rồi, kẻ lạ mặt đưa tay ra hiệu cho đồng bọn không được tấn công. Một tên khác lên tiếng:

- Không, không hắn ta không nghe được đâu, tai lũ Taorcl chứa toàn cứt ấy.

Tên khác lên tiếng hùa theo:

- Đúng, đúng, lũ Taorcl có phải là con người đâu.

Ba tên đó cười phá lên, như đang khiêu khích bọn họ vậy. Korant quay qua, nói nhỏ vào tai của ông Razid:

- Bọn họ bị gì vậy?

Ông Razid run run, đưa ngón trỏ lên trước miệng:

- Suỵt!

Gã béo tiến lại quầy rượu, đặt tay lên vai kẻ lạ mặt, rồi kề vào tai anh ta, nói:

- Cút mau!

Kẻ lạ quay người lại, ông không tỏ ra bực tức hay khó chịu, trả lời hắn bằng một cách rất lịch sự:

- Đợi tôi uống hết cốc bia đã.

- Để tao giúp mày!

Gã béo nói xong, hắn lấy tay hất cốc bia vào mặt của ông ta, bia chảy xuống, làm ướt hết cả ngực của kẻ lạ mặt. Kẻ lạ mặt đứng dậy, tay cầm lấy cái cốc, đập thẳng vào mũi của gã béo. Hắn ngã khuỵu xuống, tay ôm mặt của mình, nói:

- Mày…dám…

Cú đánh đau đến mức mặt hắn đỏ lên trong chốc lát, máu mũi chảy xuống tới tận cằm. Chưa kịp đứng dậy, kẻ lạ mặt đã rút thanh kiếm dài ngoằng sau lưng mình ra, ông chém hắn một nhát ngọt xớt, đầu lão đứt lìa khỏi cổ, máu văng tung tóe vào người ông ta và lưng áo của Korant.

Hai tên còn lại nhanh chóng bỏ chạy bằng cửa sổ, ông ta quay qua nhìn chủ quán, lão liền ngượng ngùng quay ra sau như thể tránh né cái nhìn của kẻ lạ mặt. Hắn ta xin lỗi Korant vì làm bẩn áo nó, rồi huơ tay ra hiệu cho đồng bọn rời khỏi quán rượu.

Đợi bọn chúng đi khuất, ông Razid mới dám lên tiếng hỏi chủ quán:

- Sao ông không cho hắn thuê phòng đi? Còn phòng mà, phải không?

Chủ quán cố gắng bình tĩnh trở lại, ông ta thở dài, rồi trả lời:

- Ông có biết tại sao quán của tôi lại vắng vẻ không?

- Không.

Ông Razid thẳng thắn trả lời.

- Thấy thái độ của ba tên vừa rồi chứ? Không chỉ bọn nó, mà cả cái thị trấn Uniq, không một ai ưa bọn Taorcl đâu.

- Tôi thì không kì thị chúng.

Chủ quán thanh minh. Korant thắc mắc, nó liền hỏi:

- Thế tại sao ông không cho hắn và đồng bọn thuê phòng?

- Lúc trước, tôi đã từng cho một tên vào ở, nhưng người dân ở đây biết chuyện đấy. Thế là quán của tôi cũng bị bọn họ khinh rẻ. Thỉnh thoảng mới có vài khách đến, đa số là không biết chuyện đó hoặc là lũ mạc rệp.

Hiểu chuyện, ông Razid và Korant im lặng một lát, rồi ông Razid nói:

- Chắc bọn tôi lên phòng đây! Phòng của tôi ở đâu?

- Để tôi dẫn hai người lên.

Chủ quán đi vòng ra sau bếp, cạnh tay trái ông là cầu thang lên tầng trên, chủ quán bảo:

- Hướng này!

Họ đi lên cầu thang làm bằng ván gỗ thông, nó có mùi ẩm mốc và khá nhiều bụi bẩn. Tuy vậy, phòng ở thì ngược lại, sạch sẽ và khá đẹp, một ghế bành, hoa hồng rực rỡ, giường đệm êm ái.

Chủ quán chỉ chỗ phòng xong, liền đi mất. Korant không kìm được sự hào hứng, nó quá mệt mỏi trông ngày hôm nay, gần mười giờ trên ngựa, thứ nó mong chờ bây giờ đơn giản là một giấc ngủ ngon lành.



Buổi sáng, nắng sớm ở Uniq dịu hơn Havardor. Korant tỉnh giấc sau ông Razid nửa giờ, hai người chuẩn bị đồ đạc cho chuyến đi câu, ông Razid nói:

- Tất cả đã đầy đủ, chúng ta ăn sáng trước nhé.

- Dạ vâng.

Họ xuống tầng trệt, cả quán rượu thơm lừng mùi của trứng rán và thịt xông khói. Ông Razid bảo chủ quán:

- Chào buổi sáng! Cho tôi và thằng nhóc hai phần.

Chủ quán vui vẻ mang lại bàn hai phần điểm tâm, nóng hổi, nói:

- Của hai người đây, tất cả chín đồng. Quên chưa tự giới thiệu, tôi tên là Krielin.

- Đây tiền của ông! Tôi là Razid, thằng bé là Korant.

Krielin liền hỏi:

- Thế ông định ở đây mấy hôm?

- Chưa biết, chắc tầm năm ngày.

Krielin đi ra sau bếp làm tiếp việc của mình. Hai người họ xử gọn bữa sáng trong chốc lát. Họ vác cần câu đi ra khỏi quán Droen, rồi đi bộ thật nhanh về sông Yiwall.

Sông Yiwall cách quán rượu khoảng mười cây số về phía tây nam, không xa lắm, nên họ đi từ từ. Ở phía đông thị trấn là một khu vực rộng lớn được bao phủ bởi lúa mì và những loại cây lương thực khác.

Sau tầm hai giờ đồng hồ, họ đến được bờ sông, nó rộng lớn, uốn éo và dài ngoằng. Korant hỏi:

- Bây giờ mình bắt đầu chứ?

- Được thôi!

Ông Razid vui vẻ trả lời nó. Ông tháo cái túi da dây đeo chéo trước ngực xuống, lấy chút mồi gài vào lưỡi câu, ông chỉ Korant cách sử dụng, khi họ đã cắm câu xong, ông bảo nó:

- Chúng ta sẽ ngồi ở đây cho đến khi cá cắn câu, có lẽ là sẽ hơi nhàm chán, cháu muốn ông kể chuyện không?

- Dạ muốn chứ!

Ông Razid nhìn qua bờ sông, hít thở thật sâu, rồi quay qua nhìn nó, mặt đối mặt, ông nhìn thẳng vào mắt nó, ngân nga kể:

- Thời gian trôi qua thật nhanh, năm tháng cứ trôi qua dù chúng ta muốn hay không… Cậu chuyện ta kể cho cháu có thể sẽ không trọn vẹn và rời rạc, nó chỉ còn là một phần nhỏ trong kí ức, nhưng chúng cần thiết để lưu giữ. Ông sẽ kể một câu chuyện đã rất lâu đời và đã bị lãng quên, hay chỉ còn mơ hồ trong kí ức con người, nhưng trước tiên ta muốn hỏi: “Cháu có tin vào sự tồn tại của phép thuật hay không?”

Korant nhìn thẳng vào ông, nó thẳng thắn trả lời:

- Dạ có.

Ông Razid gật đầu, rồi bắt đầu câu chuyện:

“Hàng trăm năm trước, phép thuật vốn đã tồn tại trong thế giới chúng ta, nhưng tổ tiên lại cho rằng chúng ở một thế giới khác, một thế giới luôn vận hành song song nhưng lại độc lập với chúng ta. Nhưng với thế giới của Phantom thì mọi chuyện lại khác, chúng hiểu về phép thuật và có thể sử dụng thành thục, chúng chỉ truyền bá bí mật giữa những Phantom với nhau.

Rất dễ nhận ra một Phantom, nhưng tìm thấy thì không, bọn chúng có thân hình cao lớn, vạm vỡ, cao từ hai đến ba mét, tóc bạc trắng, đôi mắt đỏ rực trông hệt ác ma, chúng bất tử với bệnh tật, chỉ gươm giáo, thuốc độc mới có cơ may lấy đi sinh mạng của Phantom.

VÌ thế, húng luôn là nỗi ám ảnh của những người dân ở Sinaql, một thị trấn ở phía đông đất nước Akdilos, cách Naoorlogs hơn mười nghìn dặm về phía tây bắc. Tại đây, cứ khi mùa thu vừa bắt đầu, một tá những Phantom lại đến để thăm dò, tìm ra kẻ có nội lực mạnh mẽ để biến họ thành một Phantom tàn bạo, thông qua tà thuật cổ đại của chủng loài. Và rồi, một đứa trẻ xuất hiện, khi nó lên năm, lũ Phantom đến đây khảo thí và nhận ra nội lực bên trong đứa trẻ thật phi thường. Hắn đưa cậu bé về sâu trong rặng núi Laen, đặt tên nó là Wodsrix và bắt đầu giai đoạn huấn luyện đầy khóc liệt.

Sau hơn mười hai năm dài ròng rã, cuộc huấn luyện cũng đã kết thúc, tài năng của Wodsrix vượt trội hơn tất cả, thể lực cường tráng, trí tuệ tuyệt vời, chỉ trong một đến hai tháng sau đó, địa vị của nó đã có thể sánh ngang với những Phantom tiền bối.

Những Phantom bắt đầu lo ngại với sức mạnh của nó, e ngại sẽ có ngày không thể kiểm soát Wodsrix được nữa. Và đúng như vậy, sự thù hận trong tim của nó không hề vơi đi dù là một phần nhỏ. Wodsrix bắt đầu lên kế hoạch trả thù nhưng nó đủ thông minh để hiểu rõ về sức mạnh mình sở hữu cũng chỉ được chỉ dạy từ sư phụ, trong khi còn hàng nghìn kẻ khác mạnh hơn.

Wodsrix tìm đến ma thuật hắc ám như đây là con đường cuối cùng của nó. Nó lùng sục hết tất cả những quyển sách có liên quan đến phép thuật ở khắp các thư phòng, học hỏi những Phantom cấp cao bằng cách giả vờ mày mò tìm hiểu.

Sau hơn hai năm miệt mài trao dồi về phép thuật hắc ám, Wodsrix quyết định bước ra thế giới bên ngoài, nó lấy lý do là để học hỏi thêm, nhưng thực ra là tạo dựng thế lực của riêng mình. Nó du hành đến phía bắc, một ngọn núi lạnh giá, băng tuyết phủ quanh năm, nhưng hắn đâu biết rằng ở đây là lãnh địa của lũ mãng xà khổng lồ, Wodsrix bị chúng phục kích khi đang ngủ. Ngựa bị giết, trong khi nó thì mất một cánh tay. Tuyệt vọng và cô độc, Wodsrix dần trở nên điên loạn, nó mạo hiểm lên đỉnh núi, nhưng bão tuyết bất ngờ xuất hiện, Wodsrix bị vùi dập trong con lạnh giá và bất tỉnh.

Ông Razid thở dài, ông châm tẩu thuốc, bập vài ba hơi ngắn. Gương mặt ông chứa những nỗi buồn sâu sắc, ông tiếp tục:

“Wodsrix tỉnh dậy trong một hang động, nó hoàn toàn bình phục, cánh tay bị mãng xã cắn đứt cũng đã lành lặn. Một con rồng nghìn tuổi đã cứu nó, ông ta đưa Wodsrix về hang động và sưởi ấm cơ thể nó bằng đôi cánh rộng khổng lồ.

Nhưng hỡi ôi! Lòng tham của đứa trẻ xuất hiện, nó biết máu của loài rồng có thể ban cho con người sự bình phục, tim của chúng sẽ giúp cho con người trường sinh bất tử. Và rồi, trong một đêm khuya trong hang động, nó đã ra tay hạ sát con rồng.

Khi có được sự bất tử và phép thuật cao cường. Wodsrix quay về rặng Lean phục thù…Nó đánh hạ hầu hết những Tà Thần, chúng đành phải rời bỏ rặng Lean và lẩn trốn ở những nơi thật kín đáo. Wodsrix tạo dựng thế lực cho riêng mình, nó viết những quyển sách về cách phép thuật vận hành và truyền đi khắp nơi. Kể từ đó, những pháp sư xuất hiện tràn lan trên khắp đất nước Akdilos.”

Câu chuyện kết thúc, ông Razid nhìn nó rồi nở một nụ cười. Bất thình lình, ba bốn kẻ lạ xuất hiện, chạy thẳng ra khỏi bụi cây, bọn chúng trông giống hệt với cái bóng trong rừng Nomus, nhưng bây giờ Korant có thể nhìn nó rõ hơn, da chúng màu xanh lá, cao chưa đến một mét, râu cằm màu nâu và quấn khố, tay cầm theo cây gậy gỗ cũ mèm.

Bọn chúng rất vội vã, như đang chạy trốn. Một con đưa cậy gậy về hướng ông Razid rồi đọc một câu thần chú:

- Mnao.

Một quả cầu lửa bay đến, nhanh đến nỗi Korant không kịp cảnh báo ông, quả cầu lửa bay thẳng vào lưng ông, đốt cháy một vùng rộng của chiếc áo trùm, kèm với cú nổ mạnh khiến ông Razid ngã xuống đất, rồi ngất đi.
 
Chương XI: Nỗi uất ức của người mất gia đình.

Korant đỡ ông Razid nằm xuống một khoảng đất bằng phẳng, máu bắt đầu rỉ ra từ vết thương, ngày một nhiều thêm, trên lưng ông có một dấu hiệu lạ đang sáng bừng lên, nó có hình dáng một con rồng đang cuộn tròn cơ thể của mình lại. Korant đứng lên, cố gắng bình tĩnh và đối mặt với những sinh vật đang đứng trước mặt mình.

Korant nhận ra mình không phải là đối thủ của bọn chúng, lũ quái dị này biết sử dụng phép thuật. Korant đưa tay ra phía trước, nó tập trung hết sức mạnh, rồi la lên:

- Kqoaql.

Một luồng ánh sáng xanh bay thẳng vào hai con sinh vật, làm cho người nó bất động như bị hóa đá, Korant nhanh trí rút con dao găm ngay thắt lưng, phóng thật mạnh vào ngực của con vật. Con vật ngã xuống, máu chảy khắp cả một khoảng đất nhỏ, mùi tanh kinh khủng. Hai con còn lại thì bị bắn xuyên qua yết hầu, nhưng không phải do Korant mà là từ bọn thợ săn báu vật hôm trước.

Tên lạ mặt ấy tiến lại gần hơn, chỉ còn cách Korant khoảng ba bước chân, ông ta nói:

- Đưa cho ta cái gai trên lưng của người lùn ngươi vừa giết, thì ta sẽ tha mạng.

“Hóa ra đây là người lùn” - Korant nghĩ thầm.

Bây giờ trong đầu Korant lại xuất hiện thêm nhiều nhiều câu hỏi và sự lo lắng: “Hắn ta cần thứ này để làm gì?”,“Nó có giá trị gì chăng?”. Korant cố tình giả ngơ, hỏi lại hắn:

- Cái gai gì cơ?

- Ta nghĩ rằng ngươi là một thằng nhóc biết điều và có chút tài lẻ. Nào! nhanh chóng đưa nó cho ta đi, ta không muốn phải kết liễu một tài năng.

- Tại sao ta phải đưa cho ngươi? Một món đồ quan trọng mà thợ săn báu vật phải đi xin xỏ một thằng nhóc chắc chắn rất có giá trị. Ta sẽ không đưa.

Korant nói với giọng điệu thách thức người lạ mặt. Hắn ta nhếch mép cười, nói:

- Được. Ngươi láu cá lắm thằng nhóc.

Hắn ta tiến lại gần hơn, cúi sát xuống, hỏi Korant:

- Ngươi nghĩ có thể thắng được ta không? Nhưng không chỉ có mình ta ở đây đâu.

Hắn ta vẫy tay, từ phía sau, hơn tám cung thủ đang giương cung hướng về nó, chỉ cần nó làm trái ý hắn ta, nó sẽ chết trong tức khắc.

Korant hiểu. Nó biết hắn ta mạnh đến cỡ nào dù không dùng đến phép thuật, huống hồ bây giờ nó còn bị bao vây từ trước. Nó lúng túng đáp lại:

- Đây, của ông hết. Nhưng tại sao ông lại cần nó?

- Đơn giản thôi, vì tiền. Nhà vua thuê ta làm việc này với một số tiền rất lớn, hắn ta cần thứ này và người lùn ngày càng khan hiếm.

- Nhưng tại sao Osward cần nó?

- Ngươi không cần biết và cũng không nên gọi ngài theo cách đấy, cẩn thận lời nói của mình đi.

Hắn ta và đồng bọn bước đi qua từng bụi cây rồi mất hút. Korant nhanh chóng quay lại chỗ ông Razid đang nằm. Tuy là một quả cầu lửa, nhưng nó lại chẳng để lại bất cứ vết bỏng nào cả, kì lạ thay, vết thương lại chảy khá nhiều máu. Korant cõng ông lên, rồi đưa về thị trấn.

Đường về cách đây hơn mười cây, Korant lo sợ không kịp đưa ông Razid về thị trấn để cứu chữa. Nó dốc hết sức lực, đi với tốc độ nhanh nhất có thể.

Korant quay trở lại Uniq khi chiều tà, nó chạy quanh thị trấn để tìm một thầy thuốc, người dân chỉ Korant đi đến một ngôi nhà nhỏ, cổ kính, nằm ở phía tây bắc của thị trấn. Khói bay nghi ngút ngay bên trên ống khói, nó gõ cửa, hỏi:

- Có ai ở nhà không ạ?

Từ phía sau, một bà lão vỗ vào vai nó và bảo:

- Thằng nhỏ, mi cần chi?

- Bà có phải là thầy thuốc Loasm mà mọi người nhắc đến không?

- Đúng, đúng vậy. Chính là ta đây.

- May quá!

Korant thở phào nhẹ nhõm, rồi nói tiếp:

- Bà mau giúp ông của cháu với!

- Được được. Mau vào nhà đi!

Korant đưa ông Razid vào bên trong nhà, đặt ông nằm sấp trên chiếc đệm. Bà Loasm tiến tới, lấy một ít vải đã thấm nước từ trước, lau sạch những vệt máu khô ở trên lưng của ông. Vết thương không có dấu hiệu bỏng hay cháy sém vùng da, nó rất kì hoặc. Bà hỏi:

- Ông ấy bị gì thế?

Korant đờ người. Nó cố suy nghĩ ra một lý do hợp lý một chút, rồi nói:

- Ông ấy bị đâm.

Bà Loasm hoảng hốt, tới tấp hỏi nó:

- Ai đâm ông ta? Nhưng vì lý do gì? Người dân ở đây chẳng bao giờ mang vũ khí theo cả.

- Cháu không biết.

- Chắc lại là lũ Taorcl khốn khiếp!

Bà ta tức giận thốt lên. Korant cũng không nghĩ ra lý do nào để thanh minh cho họ, nó cảm thấy áy náy nhưng chỉ gật đầu, ra vẻ đồng ý cho qua chuyện. Sau cùng, ai lại tin tưởng người dân Taorcl chứ.

Nó để ông Razid ở lại nhà bà Loasm để tiện chăm sóc. Những ngày sau đó chỉ vỏn vẹn trong những hoạt động: chăm sóc ông, ăn uống và nghỉ ngơi.

Sau một tuần chăm sóc cho ông Razid, vết thương nay đã lành lặn, nhanh hơn với những gì mà bà Loasm tính toán. Ngày cuối cùng ở thị trấn, ông Razid đưa Korant đi ăn cá nướng, một món ăn đặc biệt ở Uniq. Hương thơm rất lạ, tỏa ra từ lớp vảy, từng thớ thịt lẫn với mùi hơi khét của da, họ ăn kèm với một ít bánh mì cùng một cốc bia lạnh.

Xế chiều, Korant và ông Razid đi khoảng một cây số về phía bắc, đến được một cánh đồng lớn có tên là Ballaran, xung quanh rộng lớn, không gian được chia ra làm hai màu sắc đơn giản. Ánh nắng mặt trời chiếu qua từng áng mây, làm những bông lúa mới trổ ngả sang màu đỏ. Một khung cảnh bình yên so với những gì mà Korant đã phải hứng chịu.

Trăng lên cao, họ quay về quán Droen nghỉ ngơi, chuẩn bị đồ đạc quay về Havardor.

Sáng sớm, trời lạnh ngắt, nhưng hai người vẫn phải nhanh chóng lên đường. Trong lúc Korant đang chuyển đồ lên ngựa, ông Razid tiến đến, hỏi:

- Korant này! Cháu biết sử dụng phép thuật từ khi nào?

Korant giật phắc người, nó quay lại, nói:

- Làm sao ông biết được?

- Hôm đấy, ta đã thấy cháu chiến đấu với bọn người lùn.

- Cháu…

- Không, không. Cháu nghĩ ta rầy cháu à?

- Dạ.

- Cháu biết những gì về dấu hiệu này?

Ông Razid quay người lại, bên dưới lớp áo, một dấu hiệu to lớn bỗng sáng bừng lên, rồi vụt tắt trong chớp mắt. Korant tròn xoe đôi mắt, nó trả lời ông:

- Không ạ! Cháu không biết.

Ông Razid im lặng, suy nghĩ một hồi lâu, rồi ông nói:

- Đây là biểu tượng của những pháp sư, những dấu hiệu là sự tự hào của họ, thể quyền cho quyền lực, sức mạnh và nội lực của họ qua màu sắc của ánh sáng khi dấu hiệu sáng lên.

- Korant, mau quay người cháu lại cho ông xem.

Korant làm theo lời ông, nó quay người lại, ông Razid kéo phần sau áo nó lên, dấu hiệu đã hoàn thành hơn phân nửa, chỉ còn thiếu những chi tiết trên khuôn mặt đáng sợ của một sinh vật lạ, tựa như ma vương.

Ông Razid hỏi nó:

- Cháu sử dụng được phép thuật từ khi nào?

- Khoảng một tháng trước, vào hôm cháu giúp ông dọn dẹp nhà.

- Vậy là cháu đã đọc cuốn sách đó. Ta đã cố gắng cất nó thật kín và lồng vào bìa sách khác. Thế mà… cháu vẫn tìm ra nó trong hàng ngàn quyển còn lại, có lẽ cháu và phép thuật có duyên với nhau đấy.

Ông Razid quay nhìn Korant với một nụ cười gượng gạo. Korant không hiểu ý nghĩa của nụ cười này, một sự vui mừng nhưng lại có chút gì đó rất đau khổ, như thể ông không muốn điều này xảy ra.

Họ thúc ngựa để có thể về làng thật sớm. Dường như lúc nào chặng đường quay về cũng nhanh hơn lúc đi. Korant hơi nhớ nhà, vì chưa bao giờ nó rời làng lâu như thế.

Sau đúng một ngày đi đường, họ đã nhìn thấy bóng dáng của làng Havardor ở trước mắt, nhưng lại có một cột khói cao chót vót bên trên. Ông Razid nhận thấy có chuyện chẳng lành, ông vẫy tay ra hiệu Korant đi nhanh hơn. Vừa đến làng, Korant nhảy phốc xuống đất. Lửa vẫn còn cháy lớn, hơi nóng phất lên hừng hực, trước mặt nó là một khung cảnh kinh hoàng trong sự đổ nát, nhà cửa tan nát thành nhiều mảnh. Cột kèo, tường mái tung tóe khắp nơi. Ông Razid hầm hầm tức giận, nói:

- Đáng lẽ ta nên cảnh báo mọi người từ trước. Kẻ lạ mặt lúc trước đến làng, thực ra là để cảnh báo về Cial, chuyện nó là tay sai của triều đình.

- Ông nghĩ gì vậy? Anh Cial không bao giờ làm thế!

Korant quả quyết cãi lại. Ông nói tiếp:

- Ta cũng không muốn tin, nhưng rốt cuộc nó là sự thật. Ta hối hận quá!

- Không đời nào.

Korant rời khỏi cuộc nói chuyện, nó chạy đến ngôi nhà của mình, nó sụp đổ, vỡ vụn ra như bị một người khổng lồ giẫm nát. Bếp lò vỡ tan, lẫn lộn cùng vài miếng sắt cong vẹo, gạch men vỡ vụn, vương vãi khắp mặt đất. Chuồng ngựa cháy tan hoang. Korant la lớn lên:

-Cậu ơi! Mợ ơi! Anh Cial! Có ai không?

Không một ai đáp lại nó. Korant băng qua đống đổ nát, lùng kiếm cậu Palich. Nó lại lên tiếng gọi. Ông Razid đi vòng qua đống đổ nát, đến sát bên Korant, nói:

- Sao rồi?

-Không thấy ai cả. Nếu chúng ta về sớm hơn một tí thì mọi chuyện đã không như này.

- Nếu về sớm thì cháu đã chết rồi.

Ông Razid tức giận vì những suy nghĩ bồng bột của Korant.

- Không, nhất định sẽ không có chuyện này xảy ra.

Korant gào lên, nó đấm vào một bức tường đến mức toạc da, máu chảy ròng ròng trên những ngón tay. Korant cúi người nhìn những dấu vết còn in trên mặt đất. Bỗng mắt nó mờ đi, chẳng còn nhìn rõ nữa. Nó tự hỏi: “Mình bị mù rồi sao?”, Korant run rẩy đưa tay lên mắt, nó mới nhận ra là mình đang khóc.

Korant nuôi chút hi vọng cuối cùng, nó chạy ra khỏi nhà để tìm kiếm. Nó chăm chú nhìn vào mấy dấu chân, chúng là những dấu đi trở ra, cũng chỉ có ba đôi ủng. Trong nhà có ba người, tính thêm cả lũ tấn công, không thể nào chỉ có ba đôi ủng. Có thể sẽ còn người dưới đống tàn tích.

Korant quay vội vào nhà, bảo ông Razid:

- Cháu sẽ tìm ở xung quanh nhà và xem xét các dấu vết, ông tìm giúp cháu những dấu vết xung quanh ngôi làng.

Korant bước trên đống tàn tích, nó vừa kéo lên một tấm ván, chợt nghe sau lưng một tiếng thở nặng nề. Nó lên tiếng hỏi:

- Cậu ơi! Có phải cậu ở đó không?

Không nghe thấy tiếng trả lời. Korant kéo mấy tấm ván gỗ ra khỏi nơi đó. Một bàn tay yếu ớt lộ ra, phần còn lại thì bị chắn bởi một cây đà to tướng. Korant gắng hết sức lực, dùng cả tay và vai nhưng cũng không tài nào lay chuyển được. Nó nghĩ đến việc dùng phép thuật như là một phương án cuối cùng.

- Jaiqia.

Cây đà từ từ lay chuyển, từng chút một. Korant vận hết sức lực, cố gắng đưa nó ra khỏi nơi cậu Palich đang bị đè. Mồ hôi chảy ướt hết áo, nhỏ thành từng giọt rơi xuống đất. Mười phút sau, nó cũng đã đưa cây đà ra ngoài. Korant mừng rỡ, nó thở hồng hộc, rồi gắng sức lôi cậu Palich ra khỏi đống đổ nát, đặt lên bãi đất trống. Da mặt ông cháy đen, khô khốc như da người chết. Môi hé mở, đầu bê bết máu, một vết xước bên gò má. Nhưng tệ nhất, toàn phần thân của ông bị bỏng nặng nề, phồng lên những bọng nước ri rỉ nước trong. Hơi thở của ông bốc lên mùi hăng nồng, bên trong dường như có cả rơm rạ

Hơi thở nặng nề lại càng làm cổ họng nó đắng nghét, nó thét lên:

- Quân giết người!

Ông Razid tiến lại, nói:

- Vẫn cứu được, nhưng cần phải quay lại Uniq.

- Xa lắm! Ít nhất cũng phải một ngày. Cậu làm sao chịu được lâu vậy.

- Có thể, nhưng ta phải dùng đến phép thuật, sẽ chỉ tốn vài phút thôi. Cháu mau tìm xem còn ai bị kẹt trong nhà, rồi chúng ta đi luôn một thể.

- Dạ vâng.

Korant chạy một vòng quanh làng, nhưng không thấy ai cả. Nó thử đi ra bìa rừng Nomus, một cảnh tượng kinh hoàng, hàng chục người trong làng của nó bị sát hại, trong đó có cả mợ Quatarin. Họ bị chúng treo ngược trên những cây gỗ to đùng, cùng một mũi tên độc xuyên qua người. Họ chết trong sự đau đớn, da mặt xanh lét, môi tím lịm.

- Khốn khiếp!

Korant quỳ gối, hai tay chống lên đất, khóc trong sự đau khổ, nhưng nhanh chóng đứng lên, tay lau nước mắt, quay lại chỗ ông Razid.

- Đi thôi Korant. Nấn ná ở đây lâu quá không an toàn đâu. Bọn chúng có thể sẽ quay lại đấy

- Thế bây giờ mình sẽ làm gì?

- Dịch chuyển. Cháu hay đặt một tay lên ta, tay còn lại hãy đặt lên người cậu Palich.

Ông Razid nhắm mắt lại. Tập trung ý nghĩ về hỉnh ảnh thị trấn Uniq, rồi nói to:

- Idzies.

Hai người vút đi trong chớp mắt và không để lại bất kỳ dấu vết nào.
 
  • Like
Reactions: Vanhoctre
Chương XII: Canh giữ người hấp hối

Họ di chuyển nhanh như tia chớp, nhưng nội lực của ông Razid không đủ lớn để dịch chuyển vào trong thị trấn. Họ rơi xuống ngay trên con đường đẫn đến thị trấn Uniq, cách đó chừng năm cây số. Ông Razid không còn đứng nổi, ông ngã khuỵu xuống, thở hồng hộc. Korant hỏi:

- Ông ổn chứ?

Ông Razid gượng nói:

-Không ổn tí nào. Dịch chuyển quá xa làm ta mất quá nhiều nội lực. Ta sẽ ngất đi sớm thôi, cháu mau mau đưa cậu vào thị trấn đi.

- Thế còn ông?

- Cứ mặc kệ ta, mau đưa cậu…

Ông Razid bỗng ngất đi. Korant bị rơi vào thế khó, nó đâu thể nào để mặc ông Razid ngay tại đây được. Korant nghiến răng , nó đặt cậu Palich lên lưng và kéo ông Razid lê trên đường. Chỉ mấy bước đầu tiên, sự nặng nề như nổ tung trong thân thể, nỗi thống khổ tràn đầy cơ thể nó. Korant thốt lên: “Tôi không làm được đâu”. Nó nhìn xuống đất, nhắm chặt mắt, cố giữ cho hai chân đứng vững. Một cuộc chiến đang diễn ra bên trong cơ thể nó, Korant quyết không đầu hàng trước thể xác bướng bỉnh của mình. Mỗi bước chân vô cùng nặng nề, mỗi phút trôi qua chậm như một thập kỷ. Korant bắt đầu thấy choáng váng, nó đảo qua đảo lại trên đường, đầu chúi xuống, mắt nhắm mắt mở. Một lúc sau, nó nghe mơ hồ như có tiếng gọi, nó ngước lên nhìn.

Hai ba người lạ, áo lấm lem bùn đất, đang chạy về phía nó. Bỗng nó thấy mặt đất ngày càng gần hơn. Korant thấy trong miệng có vị máu, rồi ngất đi.

Những giấc mơ cứ chợt đến rồi đi trong cơn mê của Korant.

Nó đang đứng trên một bãi đất trống, xung quanh lạ hoắc. Một đám người lạ, nhưng trông chúng dữ tợn, có nét giống như loài quỷ. Bọn chúng treo người lên mấy cây cột to tướng. Lửa phất lên, ngày một lớn. Ngọn lửa thiêu đốt bọn họ từ từ, lũ quái vật cười hả hê, ngắm nhìn sự đau đớn và lắng nghe tiếng gào thét trong sự bất lực của con người. Korant đứng đó, đau khổ, nhưng chân nó cứng đơ. Vô cùng tức giận, nhưng nó chỉ có thể gào lên. Những hình ảnh đó mờ dần, lũ quỷ biến mất, mây mù bay tới. Nó thấy thoáng qua lũ lính triều đình, trong đó có Cial. Korant kêu anh, nhưng Cial chỉ cười, nụ cười đầy sự khinh khi. Bọn lính bước lên con tàu rồi vụt đi.

Tỉnh giấc, Korant mở mắt nhìn quang cảnh căn phòng, mùi hoa larix trong phòng làm nó khó chịu. Một chiếc chăn đang phủ kín thân thể. Có ai đó đã băng lại những ngón tay của Korant.

Korant cố gắng ngồi dậy cho tỉnh táo, dù mệt lả. Chiếc khăn tay rơi từ trên trán nó xuống, có vẻ Korant bị sốt. Đầu nó nhức như thể có ai lấy trống gõ vào vậy. Nó đảo mắt nhìn xung quanh. Một bộ chày cối tán thuốc, vài cái bát và thuốc. Trên tường là hàng đống những lá thuốc khô, hương liệu. Ngọn lửa bập bùng bên lò sưởi, một cuộn len và vài tấm vải đặt trên ghế.

Cánh cửa bỗng được mở một cách nhẹ nhàng. Bà Loasm bước vào, trên tay cầm theo thau nước ấm và khăn ấm, bà đưa mắt nhìn Korant, nói:

- Ồ, cháu tỉnh rồi! Tốt lắm, trong người cháu thấy thế nào?

- Đỡ nhiều rồi ạ. Ai mang cháu đến đây vậy?

- Hai tên nông dân sống ở rìa thị trấn.

- Chúng còn mang theo ai khác không bà?

- Có, một lão già và một cậu trung niên.

Korant thở phào nhẹ nhõm khi cả ba đều an toàn. Nó hỏi:

- Hai người bọn họ đâu rồi hả bà?

Bà Loasm kéo ghế lại sát giường, nói:

- Ở bên nhà cháu của bà. Nhà bà không đủ chỗ chứa hai người họ. Vì thế bà phải chạy qua chạy lại hai bên để chăm sóc, rạc cả chân.

- Thế cả hai sao rồi ạ?

Bà Loasm bắt mạch cho nó xong rồi mới nói:

- Lão già khỏe re, ông ta hết sốt từ tối qua rồi. Người còn lại thì không được khỏe, ông ta cứ sốt liên miên, những vết thương vẫn chưa lành.

- Cháu phải đi thăm cậu Palich!

Bà Loasm ấn người nó xuống, bảo:

- Muốn đi thì phải ăn cái đã. Bà không muốn công chăm sóc cho cháu qua nay đổ sông đổ bể đâu. Thêm nữa, không phải lo cho cậu cháu, ông ấy sẽ khỏe lại sớm thôi.

Bà Loasm đi tới tủ gỗ, lấy cái siêu nước, rồi treo nó trên lửa của lò sưởi, rồi tiếp tục băm nấm rơm, rang một ít gạo, nấu cháo. Korant hỏi:

- Cháu đã ở đây bao lâu rồi bà?

- Hai ngày.

Hai ngày? Tức là bữa ăn cuối cùng của Korant là từ ba ngày trước. Chỉ mới nghĩ đến, người nó muốn lả đi. Nó tự hỏi, liệu có còn ai ở làng còn sống không, nếu còn người sống sót thì họ đang ở đâu. Còn anh Cial, tại sao ông Razid lại gán cho anh là thủ phạm. Tại sao chứ?

Bà Loasm nói tiếp:

- Thế cháu sống ở đâu? Tại sao cháu và hai người kia bị thương?

Korant đành phải nói dối:

- Cháu sống ở sau dãy Parolance. Một vùng hẻo lánh, ít người tới lui. Cháu và hai người đó gặp tai nạn khi đang trên đường tới đây. Ngựa chạy mất, xe tan tành. Vì vậy cháu phải đi bộ ạ.

- Không hợp lý lắm, nhưng vì sao xe của cháu bị hỏng?

- Dạ…va chạm.

Bà Loasm ậm ừ. Hai người không nói gì nữa cho đến khi nước trong nồi sôi lên ùng ục. Bà rót nước súp vào tô cháo rồi bón từng muỗng cho Korant. Món ăn ngon tuyệt vời. Ăn xong, nó hỏi:

- Thế bây giờ cháu qua thăm cậu được chưa bà?

- Ta đã bảo cháu chưa hồi phục đầy đủ sức mà. Sao cháu lì thế? Thôi được, đã vậy bà không thèm cản cháu nữa. Thay đồ đi, bà sẽ dẫn cháu qua chỗ hai người đó.

Bà Loasm rời đi cho Korant thay đồ. Bộ đồ đi săn từ hôm còn ở thị trấn Uniq đến bây giờ, bỗng dưng thơm tho hẳn, có lẽ bà đã giặt giùm nó.

Nó bước ra bên ngoài, bà Loasm nói:

- Đi đứng cho cẩn thận đấy, kẻo lại ngã vào đống thuốc khô.

Bên ngoài đang là buổi chiều, mây mù kéo dày đặc ở phía tây, gió thổi hiu hiu cuốn những làn khói bếp từ mấy căn nhà lân cận đan lại như một tấm đệm màu trắng xám. Nhà của cháu bà Loasm nằm ở đằng sau những căn nhà to bậc nhất thị trấn họ đi tới gần chỗ mấy căn nhà lớn, rồi luồn lách qua chúng.

Ngôi nhà có hai tầng, nó nằm khuất sau mấy cây xoài to. Xung quanh được bao quanh bởi nhiều cây cối, làm cho không khí mát mẻ hẳn hoi, hòa quyện vào tiếng chim hót vi vu tạo nên bầu không khí mát mẻ và thoải mái vô cùng.

Người bước ra mở cửa là cháu của bà Loasm, một người phụ nữ trí thức, dáng vẻ cao ráo, mảnh mai, mang kính cận cùng với mái tóc màu mật ong, kẹp gọn gàng thành một búi. Cô nhỏ nhẹ mời hai người vào nhà, qua khỏi ngưỡng cửa, rồi tới phòng khách. Cô cười buồn, bảo với bà Loasm:

-May quá! Cháu vừa định gọi bà. Lão già đã tỉnh dậy, hình như lão đã bình phục hoàn toàn, nhưng… anh trung niên kia thì đang nguy kịch lắm ạ. Những cơn sốt nặng cứ kéo dài mà không hề thuyên giảm. Bà mau lên thăm ông ấy ngay đi.

- Được rồi, để bà xem thử tình hình của cậu ấy.

- Cho cháu theo với!

Korant nói. Cô ta liền hỏi bà Loasm:

- Ai vậy bà?

- Đứa bé đi chung với hai người đó. Một thằng nhóc bướng bỉnh. Cháu dẫn nó lên lầu trước đi, bà về nhà lấy ít thuốc.

- Vâng ạ

Korant chen vào:

- Nhưng cháu tự đi lên lầu được mà.

- Cháu chắc không?- Bà Loasm hỏi

Korant gật đầu. Cô ấy áy náy nói:

- Thôi được. Vậy khi nào xong việc hoặc cảm thấy đói, xuống đây gặp chị, mẹ chị mới làm một ít bánh mứt, hi vọng là em thích. Tên của chị là Eleen.

Hai người vừa đi khỏi, Korant đưa mắt nhìn cầu thang làm bằng gỗ sơn huyết, nó dựa vào tường đi thật chậm rãi và cẩn thận. Tới đầu cầu thang, Korant đưa mắt nhìn suốt hành lang dài, hai bên treo vài cái đầu của động vật hoang dã. Tất cả căn phòng đều đã được đóng lại. Phòng cuối cùng, bên trái, cánh cửa đang hé mở.

Korant bước vào. Ông Razid đang đứng cạnh lò sưởi, đun nước trong siêu và ăn vội vàng một bát súp gà. Một người phụ nữ ngồi trên ghế, cạnh giường chỗ mà cậu Palich chính là mẹ của Eleen.

Dì Otrics đang nhúng vài miếng vải mới luộc vào nước lạnh, xếp gọn lại, rồi thay với cái đang đặt trên trán của cậu Palich. Bà quay ra sau, hỏi:

- Cháu là đứa bé mà bà Loasm chăm sóc phải không?

- Dạ. Hai người họ là người thân với cháu. Cháu xin bà Loasm qua thăm.

- Được rồi. Dì sẽ ra khỏi đây cho ba người thoải mái nói chuyện. Khi nào xong thì cháu xuống bếp nhé.

Korant gật đầu. Nó đợi dì Ortrics ra khỏi phòng, rồi mới hỏi chuyện ông Razid:

- Sức khỏe cậu thế nào rồi hả ông?

- Tệ lắm, Palich sốt không ngừng nghỉ, mấy vết bỏng ngày cặng nặng hơn.

Cậu Palich đang nằm trên chiếc giường được độn cao bằng mấy cái chăn. Vầng trán của cậu nóng hổi, ướt đẫm mồ hôi, hơi thở nặng nề nhưng liên tục gián đoạn. Da mặt co rút như người chết. Tay chân lạnh ngắt. Nó cảm thấy có sự xuất hiện của phép thuật trong việc này.

Korant lật một góc chăn. Những vết thương được băng bó kĩ lưỡng, nhiều vết thì đang chờ để thay băng, chứng tỏ bệnh tình của cậu chưa hề thuyên giảm. Korant hỏi ông Razid:

- Thế ông nghĩ rằng ai là người đã đốt làng Havardor?

- Hôm trước ta đã nói với cháu rồi đấy. Là Cial cùng với lũ lính triều đình.

- Nhưng sao ông lại chắc chắn như vậy?

- Chuyện dài lắm!

Ông Razid đi tới cửa, ló đầu ra nhìn hành lang. Bà Loasm đang từ từ tiến tới. Ông liền quay vào, bảo:

- Có người tới! Để khi khác ông sẽ nói.

Bà lang bước vào. Trên tay cầm theo cái giỏ đựng đầy thuốc men, từ thuốc rượu, thuốc cao cho đến những loại mà bà Loasm từ tay điều chế. Bà nói:

- Hai người mau mau tránh ra nào! Tôi sẽ thử với mấy thứ thuốc mới.

Korant im lặng, nó ngồi sụp xuống bên góc tường. Bà lang nhìn nó rồi bảo:

- Bà nghĩ tốt hơn cháu nên rời khỏi đây.

- Nhưng cháu muốn ở lại.

- Không, cháu cần một nơi thông thoáng và dễ chịu để thư giãn. Hay cháu đi xuống bếp đi, xuống dưới sẽ dễ chịu hơn nhiều.

Bà nhìn ông Razid như muốn hỏi: “Còn ông?”. Ông Razid dễ dàng nhận ra. Ông bĩu môi, nói:

- Tôi muốn nằm nghỉ.

Bà lang gật đầu rồi bắt tay vào việc chữa trị. Trong khi đó, Korant đành miễn cưỡng xuống bếp theo lời bà ta.

Gian bếp tràn ngập trong hương thơm của mật ong, đường và một số gia vị lạ lẫm. Dì Otrics và chị Eleen đang cậm cụi làm thức ăn cho bữa tối. Chị thấy nó, liền chỉ tay vào ghế và bảo:

- Mau ngồi xuống đi, Korant.

Nó cảm ơn, rồi ngồi xuống ghế, đặt hai bàn tay lạnh ngắt lên đùi. Trước mặt nó là một đĩa đồ ăn ê hề. Korant chỉ nuốt được vài miếng. Trong người nó hơi khó chịu.

Bỗng dưng, bên ngoài có tiếng phanh của xe ngựa. Dì Otrics liền quay qua, thì thầm nho nhỏ với Eleen. Cửa mở ra, ba người đàn ông bước vào.

Chị Eleen liền chạy ra, rồi nói gì đó với gã trung niên. Korant chỉ nghe loáng thoáng được mấy thứ, nào là cẩn thận rồi truy nã gì đó, nó cũng chẳng quan tâm cho lắm.

Tất cả đi vào gian bếp, chị Eleen đứng ra giới thiệu. Người trung niên là cha của chị ấy, tên ông là Natocz, hai người còn lại đều là em ruột của Eleen, đứa lớn tên là Harchitect, đứa em là Barchitect.

Cả nhà ngồi xuống bàn và bữa ăn bắt đầu. Ông Natocz mở lời:

- Bây giờ cháu cảm thấy thế nào rồi?

- Hơi khó chịu ạ.

- Bác biết là không đúng lúc, nhưng… cần phải biết rõ chuyện đã xảy ra thế nào.

- Cháu không nhớ ạ.

- Cháu cần phải cho bác biết rõ mọi chuyện.

Korant đành tự chế ra một câu chuyện:

- Cháu không nhớ rõ. Cách đây ba ngày, khi cháu và ông Razid quay về Parolance, đêm hôm đó không có chuyện gì xảy ra. Sáng hôm đó, sau khi đã xong việc nhà, cháu và ông Razid ra đồng để đi dạo, lúc quay về thì nhà cửa đã tan hoang rồi.

Dì Otrics thốt lên;

- Thật kinh khủng!

Harchitect liền hỏi:

- Thế em tìm thấy cậu Palich ở đâu?

- Ngay trong nhà. Trước cửa nhà, em chỉ nhìn thấy hai dấu chân đàn ông đi ra ngoài, nên đoán rằng cậu còn ở bên dưới.

Barchitect bắt bẻ:

- Sao cậu lại không nghĩ có ai đó đưa ông ta ra khỏi?

- Đoán mò thôi. Nếu tôi không vào thì làm sao cứu được cậu Palich.

Bác Natocz hỏi:

- Thế cháu nghĩ ai đi làm việc này?

- Cháu không biết.

- Còn về động cơ?

- Cháu đành chịu thua.

Korant có cảm giác như thể mình đang bị tra khảo hơn là được hỏi thăm. Bọn họ là người lạ, và nó cũng không tin tưởng mấy người này cho lắm. Korant ăn vội thêm vài miếng thịt cho hết đĩa thức ăn. Nó đứng dậy, xin ra ngoài đi dạo.

Trời đã tối, hôm nay là một đêm không trăng, những tảng mây lớn bay đầy trên bầu trời đêm. Korant hít một hơi thật dài. Nó rảo bước đến quán rượu quen thuộc, quán Droen.

Bên trong quán rượu vẫn vắng tanh, chủ quán nhìn nó rồi mỉm cười, ông nói:

- Korant phải không? Cháu và ông chưa quay về à?

- Gặp một tí trục trặc.

- Chuyện gì? Cả hai người đều ổn chứ?

- Cậu chuyện dài và phức tạp lắm. Mà thôi, cháu chả muốn kể đâu.

Ông Krielin im lặng, chỉ gật đầu đồng cảm với Korant.

- Cho cháu một cốc bia.

Chủ quán liền mang ra cho nó. Korant uống ngay một ngụm gần hết ly, nó hỏi:

- Ông biết bác Natocz chứ?

- Biết.

- Ông ta thế nào?

- Nói sao nhỉ?…Hắn ta giống một gã điên, đầy tham vọng và hiểm ác. Tốt nhất cháu không nên dây dưa vào loại người này đâu. Tại sao cháu lại hỏi về hắn?

- Cháu đang ở nhờ ông ấy.

Ông Krielin ngạc nhiên, liền hỏi:

- Sao cháu không ở tại quán ông như hôm bữa?

- Cháu không thể. Người thân của cháu đang bị bệnh. Bà Loasm là người chăm sóc, cháu phải ở đấy để bà ấy tiện qua lại.

- Ai bị bệnh?

- Tai nạn ạ. Cháu nghĩ nói ra cũng chẳng cần thiết đâu.

- Ừ, ông hiểu rồi.

- Thôi cháu đi đây. Tạm biệt ông.

Korant đặt bốn đồng lên quầy, rồi rời khỏi quán.

Bên ngoài lạnh ngắt, nó khoanh tay lại cho ấm, nhưng người vẫn run cầm cập. Dọc đường đi, Korant lấy làm lạ khi chẳng thấy một ai, dù chỉ mới tám giờ.

“Khung cảnh ở thị trấn Uniq trông chẳng bằng một góc của Havardor.” - Korant khẳng định.

Korant bắt đầu cảm thấy chán ngấy nơi đây. Nó chỉ muốn về làng, nhưng than ôi, ngôi làng mà nó yêu quý đã tan tành mất rồi!

Bỗng dưng, Korant thấy trên đường, lấp ló bóng dáng của hai người. Họ mặc đồ đen, sau lưng có hình quốc hiệu. Lại là lũ lính triều đình, Korant nghĩ.

“Không đúng, nếu là lính, chúng đã phải mang theo gươm, giáo và cung tên bên mình. Không lẽ chúng là pháp sư?”- Nó tiếp tục đoán mò.

Korant tiến lại gần nhất có thể, rồi nấp đằng sau một bức tường để quan sát hoạt tung của chúng. Hai kẻ lạ đi đến từng căn nhà, dò hỏi chủ nhà với giọng điệu dữ tợn về một thằng nhóc nào đó đến từ ngôi làng ở phía đông.

“Là mình sao?”- Korant nghĩ.

Chủ nhà trả lời:

- Ở phía đông có ngôi làng nào à? Các ngài có nhầm lẫn gì không đấy.

Tên cao ráo tiến tới, túm cổ áo ông, đe dọa:

- Nhầm? Mày đùa bọn tao à? Ngôi làng Havardor đấy, biết không?

Ông lắp ba lắp bắp, trả lời bọn chúng:

- Dạ không, dạ không. Tôi không biết thưa ngài.

Hắn thả chủ nhà xuống, rồi tiến đến căn nhà kế bên. Korant nhận thấy tình hình không ổn, nó cố lẻn qua sau lưng mấy căn nhà để chạy về kể lại cho ông Razid. Nhưng không may cho Korant, tên còn lại nhìn thấy nó đang lén lút lướt qua, hắn lẩm bẩm một câu thần chú. Chân Korant bỗng cứng đơ, nó không thể di chuyển được.

Hắn ta đi tới, kề sát xuống, hỏi nó:

- Mày từ đâu tới?

Korant run run, nhưng nó vẫn có tỏ ra bình tĩnh để trả lời:

- Tôi sống ở đây.

- Giọng nói của mày không giống với người dân vùng này. Nói đi, mày từ đâu đến.

- Taorcl…Tôi là người dân Taorcl, nhưng gia đình của tôi đã di chuyển đến đây từ năm năm trước.

- Lý do tốt đấy. Đen cho mày là bọn tao chưa gặp một gia đình Taorcl nào sống ở đây cả.

Hắn ta tức giận, đẩy Korant ngã ra mặt đất. Đợi bọn chúng đi khuất, nó liền cậm cụi chạy về nhà bác Natocz thật nhanh, để nói chuyện với ông Razid. Ông lão đang ngồi bên ngoài thềm hóng gió và hút thuốc. Korant tiến lại, nói:

- Trời tối rồi sao ông chưa vào nhà đi?

- Bên trong ngột ngạt lắm. Ta không thích. À mà Korant này, khi nãy có hai kẻ lạ mặc áo đen đến tìm chúng ta đấy. Chúng kêu gã Natocz ra hỏi chuyện nhưng gã không hề biết chúng ta đến từ Havardor. Ta nghĩ cả ba cần phải trốn khỏi thị trấn này sớm thôi.

- Lũ áo đen? Khi nãy cháu cũng mới vừa gặp chúng.

- Cháu nói thật đấy à? Bọn chúng có làm gì cháu không?

Korant cắt nghĩa mọi chuyện. Rồi ông Razid lập tức nhận xét:

- Không không. Chúng không phải là lũ đần đâu. Bọn chúng rất tinh ranh và xảo quyệt. Khả năng cao là chúng đã để ý đến cháu rồi, ta cần phải rời khỏi đây thôi.

- Nhưng bọn chúng cũng chỉ là pháp sư giống mình thôi mà.

- Bọn chúng mạnh hơn cháu nhiều lắm. Cháu chỉ biết được mấy câu thần chú mà đã đòi chiến đấu sao?

- Nhưng…

- Không nhưng gì cả, cháu cần làm theo lời của ông nếu muốn cậu và bản thân mình không gặp rắc rối.

Korant cúi đầu chấp nhận, nó hỏi:

- Mà tại sao bọn chúng lại đi săn tìm cháu? Ông có nghĩ chúng dính dáng đến làng của mình không?

- Cháu chắc chắn muốn biết lý do chứ?

Korant gật đầu. Ông Razid liền thuật lại toàn bộ cuộc nói chuyện của ông và kẻ lạ mặt vào hôm đó. Nó nói:

- Nhưng làm sao ông ấy biết được? Liệu chúng ta có nên tin tưởng những thông tin này?

Ông Razid bình tĩnh nói:

- Thông tin được mang đến từ những tên buôn tin triều chính, dù không chính xác hoàn toàn nhưng việc Havardor bị thiêu rụi dã trở thành sự thật rồi đấy.

Korant cau mày:

- Nói như vậy. Chẳng lẽ anh Cial là kẻ đốt làng?

- Đúng vậy. Chúng ta vẫn chưa có gì để chứng minh Cial vô tội cả.

Korant thở dài. Nó đứng dậy, tức giận nói:

- Khốn nạn! Lũ ác quỷ. Cháu nhất định sẽ tìm anh Cial để hỏi cho ra lẽ và tiêu diệt lũ pháp sư kia.

- Bình tĩnh đi! Cháu nghĩ bây giờ cháu có thể hạ gục những pháp sư của triều đình với một vài phép thuật trong tay à. Thứ bây giờ cháu cần đó là thoát ra khỏi sự truy lùng của bọn chúng đã. Còn về anh của cháu thì để sau, bây giờ chúng ta chưa thể tìm ra tung tích nó đâu.

- Vậy bây giờ ông định làm gì tiếp theo?

- Chuẩn bị một số kế hoạch, cho tình hình xấu nhất xảy ra, cháu sẽ phải trốn ra khỏi Naoorlogs.

- Cháu không thể nào cứ lẩn trốn hoài như vậy được!

- Cháu đừng căng thẳng quá, đó chỉ là tình huống xấu nhất mà thôi. Chúng ta sẽ coi tình hình như thế nào vào ngày mai rồi tính tiếp, bây giờ mau đi ngủ thôi.

Họ chào tạm biệt, rồi ông đi vào nhà Natocz, còn Korant thì len lỏi qua con đường nhỏ để về nhà bà lang Loasm. Nằm trên chiếc giường đệm êm ái, to đùng cùng với chiếc mền ấm áp phủ kín, nhưng Korant chẳng tài nào ngủ được. Trong đầu nó có quá nhiều sự lo lắng, về cậu Palich, về những tên pháp sư kia. Korant cố gắng nhắm mắt rồi đi vào giấc ngủ trong những tiếng nổ lách tách bên lò sưởi.
 
Chương XIII: Vài lời dạy bảo

Sao mai chưa xuất hiện nhưng Korant đã tỉnh giấc, trong người vô cùng uể oải. Trên bàn có một lá thư do bà Loasm để lại: “Bà có việc qua nhà Natocz vào lúc sớm để chăm sóc cho cậu Palich, đồ ăn sáng bà để trên bàn.”

Cậu Palich có chuyện gì mà bà lão phải qua chăm sớm vậy? Korant hơi lo, nó đành bỏ bữa ăn trên bàn để qua thẳng nhà bác Natocz.

Hàng lang tối đen. Xung quanh im ắng, chỉ có tiếng kẽo kẹt của sàn gỗ lâu năm và vài tiếng xì xào trong căn phòng chữa bệnh.

Ở bên trong phòng, bà Loasm ngồi cạnh giường, lau mồ hôi cho cậu Palich, chị Eleen thì luộc mấy miếng vải. Korant tiến vào và hỏi:

- Tình hình cậu thế nào rồi hả bà?

Bà lão lắc đầu, nói:

- Tệ lắm. Bà lo rằng ông ấy… không qua khỏi.

Korant chỉ gật đầu, khuôn mặt nó thoang thoáng những nỗi buồn, cổ họng nghẹn lại. Nó ngồi xuống góc phòng, vô cũng ũ rũ. Chị Eleen ngồi xuống cạnh Korant, nhưng không nói gì, chị choàng tay qua vai an ủi, rồi tiếp tục luộc vải.

Ông Razid đi vào với chai thuốc trên tay. Ông nói:

- Đây, thuốc mà bà bảo tôi tìm.

Bà lang nhìn sang, bảo:

- Ông đặt chai thuốc lên bàn đi.

Xong việc, ông lại bên Korant, rồi nói nhỏ:

- Ông có chuyện gấp muốn nói với cháu.

Họ vừa đi ra bên ngoài nhà. Korant hỏi:

- Có chuyện gì vậy ông?

Ông lão trầm ngâm một hồi, rồi quay sang lắc đầu:

- Không ổn rồi. Ta nghĩ mình cần phải trốn khỏi đây sớm thôi. Natocz và hai thằng con trai của ông ta đã lên đường đến Parolance để tìm dấu vết đấy. Như vậy, đến trưa mai, khi bọn họ quay lại, chúng ta sẽ lâm nguy.

- Thế bây giờ ông định trốn kiểu gì? Đi bộ ư? Cậu Palich đang bệnh rất nặng. Chúng ta cũng không có thức ăn.

- Chúng ta sẽ trốn đi bằng bất cứ giá nào. Đây là tình huống xấu nhất mà ông đã đoán. Khi lão ấy biết được, hắn chắc chắn sẽ khai báo với lũ pháp sư.

- Thế ông đã có kế hoạch chưa?

- Tất nhiên là có. Chúng ta sẽ rời khỏi thị trấn này vào buối tối hôm nay. Sau đó, ông và cậu Palich sẽ đến thành Barh để tìm hội Ám Hoàng, còn riêng cháu, sẽ phải đi ngược về phía đông, đến với đất nước Inticnat. Sau đó, hãy tìm người thầy của ta để học phép thuật.

- Sao ông không đi cùng cháu? Ở đây ông có thể sẽ gặp nguy hiểm.

-Không, ta có thể tự bảo vệ mình. Lũ triều đình sẽ chẳng thể tóm được ta đâu, và cũng cần ở đây để đi tìm hội Ám Hoàng nữa.

- Tại sao ông cần tìm bọn họ?

-Bọn họ là những người vô cùng căm ghét triều đình dưới thời Osward, đa số là những người dân của ngôi làng Horita. Với võ nghệ cao cường, ta tin bọn họ có thể giúp chúng ta.

Horita? Đó là nơi nào? Nó còn chẳng hề có mặt trên bản đồ Naoorlogs. Korant chẳng tán thành kế hoạch này một tí nào. Nó sẽ phải đi đến một nơi xa lạ một mình? Hơi bực tức, nhưng Korant thay vì nổi sùng, nó lại cố tỏ ra bình tĩnh và chấp nhận:

- Cháu hiểu rồi. Nhưng chỉ với võ thuật thì làm sao họ có thể đấu thắng phép thuật? Chỉ với một câu thần chú, họ sẽ tan tành.

- Đừng khinh thường. Cháu có nhớ tên Taorcl không? Hắn ta không cần đến phép thuật mà cũng đủ để cháu phải đầu hàng đấy. Họ đã kiên cường chiến đấu mười lăm năm rồi. Ta tin chúng ta có thể học được một ít.

- Nhưng đó là khi cháu chỉ biết được vài thần chú quèn.

Korant biện minh, rồi lại nói tiếp:

- Cháu sẽ làm theo kế hoạch này của ông, nhưng làm sao để cháu có thể tìm thấy người thầy của ông.

Ông Razid suy nghĩ một hồi, rồi nói:

- Tên ông ấy là Miracle và nếu như ta không lầm thì ông sống ở Gareth. Hãy cố gắng tìm cho bằng được.

Korant gật đầu, rồi hỏi:

- Rồi còn ngựa, thức ăn và yên cương, mình làm gì có đủ tiền.

Ông Razid vét hết trong túi áo và cả túi quần, số tiền họ có cũng chỉ đủ mua một con ngựa quèn và một ít thức ăn. Ông nhìn nó lắc đầu, lấy tẩu thuốc trong túi áo, thả vài vòng tròn bay lơ lửng trên không. Bỗng dưng, mặt ông sáng rỡ lên, nói:

- Ta có ý tưởng. Không tốt đẹp gì đâu, Korant ạ. Mình sẽ đi ăn trộm.

Nó cau mày, bảo:

- Xấu lắm, chẳng bao giờ cậu Palich bảo cháu làm điều đó.

- Nếu không làm thế thì chúng ta sẽ chết dưới tay bọn pháp sư đấy. Bây giờ cháu phải hợp tác thực hiện kế hoạch của ông. Sau đó, ông liền nói rõ những công việc cần làm. Ông hỏi lại:

-Rõ chưa. Cẩn thận hết sức có thể, bị bắt là toi đời đấy.

Korant gật đầu đồng ý, dù nó hơi sợ.

Trời còn sớm, đường chưa có nhiều người đi lại, Korant và ông Razid len lỏi qua nhiều cửa hàng, họ đi đến trại ngựa.

Ông Razid ra mặt nói chuyện, nghĩ ra đủ chuyện trên đời để tán chuyện với lão chủ trại. Trong khi đó, Korant vòng qua cửa sau rồi lẻn qua vào bên trong.

Trại ngựa được thành nhiều dãy, ở cuối mỗi dãy là bức tường treo đầy yên cương. Nó với tay lấy hai cái yên loại tốt, bỏ vào trong áo.

Tiếp đến là ngựa. Korant đi tìm cho bằng được hai con tốt. May mắn đã đến. Nó tìm được giống chiến mã hiếm có và một con ngựa sắc nâu, tuy hơi áy náy, nhưng Korant đành dẫn chúng ra khỏi trang trại bằng cửa sau.

Giật dây cương nhiều lần, nhưng hai con ngựa vẫn đứng yên, thở phì phì. Korant bực tức:

- Hai con quỷ này!

Nó đành lẩm bẩm câu thần chú:

- Kqoaql.

Hai con ngựa đờ ra, không chút chống cự, mắt ươn ướt nhìn thẳng Korant. Nó thở phào, rồi ra hiệu ông Razid và dẫn chúng ra ngoài.

Nửa phút sau, ông lão chạy lại với một túi tiền trên tay. Nó liền hỏi:

- Ông lấy ở đâu đấy? Không lẽ…

Ông Razid tủm tỉm, nói:

-Nhỏ thôi. Ta vừa cắt túi của ông ấy. Bây giờ mình có đủ tiền để mua lương thực rồi.

Ông kiểm tra tiền bên trong, rồi nhăn nhó:

- Có mỗi hai trăm đồng.

- Còn số của ông được bao nhiêu?

- Ta cộng tất cả rồi đấy, hai trăm.

Hai trăm? Chừng đó cũng chỉ đủ để mua lương thực cho mười ngày, với một khẩu phần đầy thịt. Nó than vãn:

- Lại phải ăn thịt.

- Không, sẽ chẳng có một miếng thịt nào đâu. Số tiền này không thể sử dụng hết cho phần thức ăn được, mình cần cung tên và mũi và một số vật dụng khác, lương thực chỉ cần bánh mì thôi.

Korant gật đầu. Ông dặn dò kĩ lưỡng tiếp:

- Mau đưa hai con ngựa vào đến gần bờ sông, chỗ hôm trước, cột chúng thật chặt vào gốc cây. Ông sẽ đi mua vật dụng. Thị trấn bắt đầu đông đúc, hãy tránh nhiều sự chú ý nhất có thể.

Buổi tối, sau khi ăn cơm xong, Korant liền trốn ra ngoài chơi như mọi hôm, nhưng lần này nó tự nhủ mình không bao giờ quay lại. Họ đã chuẩn bị xong xuôi cho cuộc lẩn trốn. Korant đã ngồi sẵn dưới gốc cây phong, cạnh bờ sông Yiwall khổng lồ. Nó rất mong chờ cho chuyến phiêu lưu này, dù biết rằng chuyến đi vô cùng nguy hiểm.

Gió thổi nhẹ làm nó buồn ngủ kinh khủng. Sau một cái ngáp dài, ông razid bỗng xuất hiện trước mắt Korant. Không thấy cậu Palich đi theo, nó hỏi:

- Cậu cháu đâu?

Ông Razid ấp úng trả lời:

- Ông ấy mất rồi… mới hồi chiều! Ta bảo bà lang đừng tìm cháu, một phần vì không muốn cho cháu biết.

Nghe tin, nó như người mất hồn. Trong người chẳng còn một chút sinh khí, nó đã mất quá nhiều thứ. Không biết mặt cha mẹ, rồi dần dần mất đi mợ, anh và tới cậu, tất cả những người mà nó yêu quý ở tại Havardor. Korant chết lặng, hai vai run run, hai bên má đầm đìa nước mắt. Nó ngửa khuôn mặt buồn thảm lên màn đêm vô sắc, gào lên:

- Trời ơi! Sao cậu Palich lại là người gánh chịu chứ?

Từ Trời chẳng thể có câu trả lời. Chỉ có mỗi tiếng thì thầm an ủi của ông Razid, ông nhẹ nhàng dỗ dành nó:

- Trong cuộc sống, sẽ có những thứ mất đi trước mắt cháu, sẽ làm cháu đau khổ, dày vò. Thế giới nó vốn tàn nhẫn như vậy đó, điều cháu cần phải hiểu ra, chỉ có thể là vươn mình đứng dậy, và tiếp tục chiến đấu như một pháp sư. Đi thôi, đừng chùn bước.

Thế giới này tàn nhẫn? Quê hương yêu dấu của nó đã thành tro bụi. Nó không còn gì để mất.

Nó vô cùng đau đớn, cơ thể như chết lặng. Cổ họng nghẹn lại không thốt nên lời, nó trách rằng tại sao ông không cho nó biết sớm hơn, nhưng rồi cũng có nghĩa lý gì khi cậu Palich đã mất. Tất cả những gì của cậu cũng biến mất, từ đất đai, ruộng vườn. Nó tự hỏi: Cậu sẽ phản ứng ra sao nếu biết đứa con duy nhất của mình là người gián tiếp gây ra chuyện. Và rồi, tất cả chỉ còn là những kỉ niệm.

Ông Razid im lặng một hồi, rồi nắm vai nó. Ông nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ, rồi nói:

-Đứng dậy và tiếp tục bước đi. Cháu nghĩ rằng cậu Palich sẽ an tâm an nghỉ nếu biết rằng đứa cháu của mình vẫn còn chưa vượt qua được nỗi đau mất mát sao. Cuộc đời của con người sẽ là như vậy, luôn có những lúc vui, lúc buồn, đừng để những tư tưởng tiêu cực đó cứ hành hạ thân xác của cháu nữa. Hãy đừng nhìn lại quá khứ, luôn tập trung vào hiện tại và hướng tới tương lai.

Korant nghe rõ và thấm nhuần từng câu từng chữ, nó sốc lại tinh thần, nói lên môt cách quyết tâm:

- Ông nói đúng. Nếu cứ giữ cơ thể ũ rũ như thế này thì cậu sẽ chẳng thể nào an tâm được. Không gì nguy hiểm hơn một kẻ không còn gì để mất và cháu sẽ trở thành kẻ đó. Cháu sẽ lấy lại tất cả những thứ mà triều đình đã chiếm đoạt! Lên đường thôi.

Ông Razid gật đầu, nói:

- Trước khi đi, ta có mấy thứ cần đưa cháu và vài lời dặn dò.

Ông Razid đưa cho nó một túi lương thực, một ít mũi tên và một cây cung mới toanh, một bức thư trang trọng và một tờ giấy ghi chú cũ mèm. Ông cao giọng bảo nó:

- Trong túi, là bánh mì, chăn và nước uống. Không nhiều nhưng sẽ đủ cho cháu sử dụng được nhiều ngày, đây là cung và mũi tên. Hãy đưa lá thư này cho người thầy của ông. Và cuối cùng là những câu thần chú cần thiết cho cháu trong chuyến đi xa này. Ta hi vọng chúng sẽ có ích.

Ông mỉm cười, lấy trong túi tấm bản đồ Naoorlogs, rồi tiếp tục dặn dò:

- Đây sẽ là đường đi của cháu. Cứ đi thẳng theo hướng đông nam, dọc theo bìa rừng Nomus, rồi tiến đến Harpln, đến nơi khó khăn nhất: hoang mạc Redorrlan, vượt qua khỏi nó, cháu sẽ đến đất nước Inticnat. Khi đến đấy, việc tới Gareth sẽ không khó.

- Hoang mạc ấy lớn gấp bốn lần khoảng cách từ Havardor đến đây đấy. Ông chắc chứ?

- Cháu biết những gì về hoang mạc?

- Nóng bức, khô cằn và đầy cát. Kèm theo những sinh vật đầy chất độc như rắn rết và trên cả là không có nước.

- Kiến thức rất tốt. Nhưng nếu cháu đi những đường khác thì cháu sẽ bị bọn chúng bắt ngay lập tức. Nếu ta biết sử dụng dịch chuyển, thì đương nhiên chúng cũng có thể. Ngoài hoang mạc Redorrlan ra, thì nơi nào cũng nguy hiểm cả.

- Vậy tại sao ông không dạy cho cháu cách sử dụng dịch chuyển?

- Khi cháu muốn sử dụng phép thuật này, cháu cần phải nhớ được hình ảnh của nơi cháu muốn đến, cháu chưa từng đến Redorrlan lần nào đúng chứ? Hơn nữa, khi trời tối, những hình ảnh về nơi đến sẽ chỉ là một bức màu đen thẫm. Do vậy, khi bị pháp sư truy đuổi, hãy mượn bóng tối làm bạn và đừng cho bọn chúng có thể ghi nhớ được khuôn mặt và đặc điểm cơ thể cháu, nếu bị bắt gặp hãy kết liễu hắn nếu cháu có thể, còn không, cháu bắt buộc phải bỏ chạy thật nhanh. Rất có khả năng nhà vua chỉ muốn chúng thực hiện điều đó.

Korant nghĩ đến cuộc nói chuyện giữ nó và tên pháp sư vào tối qua. Một cảm giác rờn rợn như thể một dòng điện vừa chạy dọc sống lưng nó:

- Vậy cháu có thể đến Harpln bằng phép thuật.

Ông Razid nghiêm mặt:

- Đúng rồi! Cháu sẽ lăn đùng xuống đất và nằm đó tới chết vì không có ai cứu giúp. Hãy nhớ rằng, phép thuật như một con dao hai lưỡi, nó cho cháu sức mạnh thì cũng có thể giết cháu.

Korant im lặng. Nó nhận ra những điều ông Razid nói nãy giờ hoàn toàn đúng. Korant hỏi:

- Thế cháu phải kiếm nước như thế nào?

Ông Razid cười, bảo nó:

- Phép thuật là sức mạnh! Hãy tận dụng những phép thuật mà ông ghi chép.

Ông lão đưa tay xuống mặt đất, lẩm bẩm câu thần chú:

- Brei do salvand.

Đất khô từ từ tan chảy, tạo thành một hố rỗng, nước chảy ra lấp đầy cái hố. Ông nói:

- Đây là cách làm, đối với cát trên hoang mạc sẽ đỡ tốn sức hơn, nhưng cháu cần một lượng nước lớn. Vì vậy hãy luyện tập thật tốt câu thần chú trước khi sử dụng.

Sau khi chất đồ đạc lên ngựa, họ chào tạm biệt nhau. Korant rất xúc động, nó muốn nhào đến và ôm ông thay lời tạm biệt. Ông nói:

- Tạm biệt, Korant. Sẽ rất lâu nữa ta và cháu mới có thể gặp nhau. Hãy bảo trọng và luôn giữ tâm trí là chính mình, đừng để bất kì ai lôi kéo.

Hai con ngựa vút đi trong màn đêm, cùng một thời điểm và nơi xuất phát, nhưng hướng đi lại trái ngược nhau!
 
Chương XIV: Cắt đuôi

Sau hơn tám tiếng từ khi rời khỏi Uniq, Korant đã đi được khoảng bốn mươi cây số về phía đông nam. Mệt lả người, nó đành dừng lại cho người và ngựa nghỉ ngơi.

Trời gần sáng, nhưng mặt trời chưa lên cao. Korant chui vào lùm cây ven đường để tìm kiếm củi khô. Nó nhóm lửa nấu nước và ăn bánh mì qua bữa.

Korant đặt tên con chiến mã là Rough, trùng với con ngựa yêu quý của nó.

Cho ngựa ăn xong, Korant chợt thấy một thoáng di chuyển của một miếng màu nhỏ nổi bật trong bóng tối. Nó đi tới quan sát, dường như một tên pháp sư đã đuổi theo nó và hắn đang dần xuất hiện trước mặt Korant.

Đôi chân của nó vẫn run rẩy như lần đầu gặp bọn chúng, nhưng Korant cố hết sức để lấy lại bình tĩnh. Đầu óc nó tập trung tìm cách trốn thoát.

Korant thét:

- Kqoaql.

Tên pháp sư không chút chống cự, hắn nở nụ cười man rợ và mặc kệ để cho Korant sử dụng phép thuật. Nó nhanh trí quay lại con Rough, vừa rủa vừa giật dây cương cho con ngựa phi nước đại.

Vừa phi trên ngựa, nó vừa ngẫm nghĩ. Nó thắc mắc tại sao bọn chúng có thể đuổi theo nó nhanh như vậy và rồi phép dịch chuyển là câu trả lời.

Korant cố nhớ lại những gì mà ông đã dạy cho nó vào tối hôm qua về phép dịch chuyển. Nó tủm tỉm cười, rồi cho dừng ngựa. Một kế hoạch vừa được dựng sẵn trong đầu nó.

Nó liền tấp vào một bụi cây, cho ngựa và người nghỉ ngơi thoải mái, vì nó biết chắc hắn ta không thể nào sử dụng phép thuật đến đây.

Cứ theo kế hoạch dựng sẵn, đến tối, khi mặt trăng vừa lên. Nó cho ngựa phi thật nhanh theo hướng đông nam và dừng lại vào buổi sáng để nghỉ mệt và trú ẩn tại một gốc kín và lập lại cho đến khi nào tên ấy hết kiên nhẫn với nó thì thôi!
 
Chương XV: Chàng lữ hành đơn độc

Đã ba ngày trôi qua kể từ hôm đó. Hai bắp đùi của nó tê dại, bàn tay phồng rộp lên vì phải di chuyển trên ngựa quá lâu. Mặt nó xanh xao, mỗi cú dằn xốc trên đường khiến cho đầu óc Korant quay cuồng.

Cái chết của cậu Palich và những cơn ác mộng cứ lập đi lập lại trong giấc mơ khiến nó chẳng thể nào ngủ được.

Đi ngang qua ngôi làng Havardor thân thương mà lòng Korant đau thắt lại. Rừng Nomus hiện lên như một tấm màu xanh thẫm nhưng nó không dám vào để săn thú vì lo rằng bị lũ pháp sư tấn công.

Một tuần trôi qua với những công việc nhàm chán lập đi lập lại theo kế hoạch. Những bữa ăn qua loa chỉ với bánh mì làm nó phát ngán. Tinh thần của Korant không được tỉnh táo, nó chỉ ngủ được từ một đến hai tiếng do những cơn ác mộng liên tục xuất hiện trong giấc ngủ. Nội lực của Korant đã mạnh hơn chút đỉnh, do những lúc rãnh rõi hoặc không ngủ được, nó liền lấy tờ giấy ra để học phép thuật.

Buổi sáng ngày thứ tám, thị trấn Harpln đã thấp thoáng hiện lên dưới màn sương mù dày đặc. Dù uể oải vô cùng nhưng điều này làm cho nó phấn chấn hẳn lên.

Hơn nửa tiếng sau, thị trấn Harpln đã ở ngay trước mặt Korant. Nó xuống ngựa, cho con Rough uống nước rồi cột lại ở ngay bên hông một ngôi nhà đầu thị trấn.

Đây là lần đầu tiên Korant thấy nơi đây yên tĩnh đến như vậy. Cả thị trấn không có lấy một bóng người.

Korant bắt đầu rảo bước đi tìm những vật dụng và thức ăn còn sót lại trong kho của những lái buôn, lấy đầy đủ nước uống cho nó và con Rough. Cuối cùng, nó sững người lại khi thấy những dấu xe ngựa rất mới. Chân nó run run vì sợ gặp phải quân triều đình. Bỗng có tiếng nói chuyện phát ra đằng sau quán ăn của bác Atrics, nó nhanh trí tìm nơi để nấp vào, nghe lén. Một gã nói nhỏ, giọng hắn như đang cầu khẩn:

- Darnoc, tôi xin anh đấy. Việc chúng ta làm đã trái với đạo lý rồi, bây giờ… anh còn bỏ cả chất cấm vào. Ông chủ mà phát hiện ra thì chỉ có chết.

Darnoc cười lớn, gắt gỏng đáp lại với cái giọng khàn khàn:

- Mày nhát thế! Bán cái đống rơm này cả đời cũng không giàu như lão. Mày phải có gan, còn không thì cút. Một mình tao làm.

Gã kia ậm ừ đồng ý.

Hàng cấm? Tính tò mò của nó bỗng trỗi dậy, Korant chậm rãi len lỏi qua từng tòa nhà, đến xe ngựa của chúng trong lúc hai tên đó đang chăm chú chất hàng vào kho.

Nhìn từ phía sau, chiếc xe chỉ trông giống như một xe ngựa chở hàng thông thường với rất nhiều rơm rạ được chất từng đống. Bên hông thùng xe có một cửa sổ, được phủ kín bằng chiếc màng trùng màu gỗ.

Korant vén tấm màng sang môt bên, nhắm một mắt lại để nhìn cho rõ. Mạng nhện là những gì đầu tiên đập vào mắt nó. Nó liền lấy tay bịt mũi khi ngửi thấy mùi thức ăn ôi thiu và mùi tanh của máu nồng nặc trong thùng xe ngựa.

Nhìn vào góc tối, nó thấy bóng dáng ai đó đang khóc thút thít, bên cạnh là một cậu thanh niên. Cả hai tay của họ đều bị trói chặt bằng dây xích, trên cánh tay có nhiều vết sẹo, nhiều vết còn chưa lành đang rỉ máu. Quần áo họ rách rưới, da dẻ nhợt nhạt, ốm yếu.

Dựa vào những vết thương trên cơ thể và cách họ bị đối xử, Korant đoán chắc rằng họ là nô lệ. Nó không thể tin rằng vẫn còn chế độ này xuất hiện. Nhưng điều này lại giúp Korant biết chắc rằng bọn họ chắc chắn sẽ đi đến Inticnat do Osward đã dẹp tan chế độ nô lệ ở Naoorlogs từ bảy năm trước.

Tay nó nắm chặt thành nắm đấm, nghiến răng tức giận. Korant thề với lòng rằng sẽ cứu họ thoát khỏi tay bọn buôn người.

Lão Darnoc quát lớn:

- Này thằng nhóc, mày làm gì ở đây? Ăn trộm hàng của bọn tao à?

Korant biết chắc nếu lão cố dùng vũ lực, nó cũng sẽ là người dành chiến thắng với phép thuật của mình, nhưng thay vì khiêu khích nó trả lời hắn thật đàng hoàng. Korant mỉm cười, nói:

- Dạ… cháu chỉ đi xem thử bác chở gì bên trong xe thôi. Mà bác có dọn thùng xe ngựa không vậy? Tanh và hôi quá, hôi như mùi máu ấy!

Lão Darnoc lấm la lấm lét như vừa bị Korant đụng trúng tim đen. Hắn ta bỗng nổi sùng, nạt nó:

- Xe của tao, tao có quyền. Tao làm gì thì kệ xác tao! Tránh ra đi.

Với sự tinh ranh của mình cùng những lập luận có sẵn, nó liền hỏi:

- Thế ông định chở cái đống rơm rạ này đến đâu?

- Gareth. Xong chưa? Cút đi để tao còn làm việc.

Korant hớn hở bước đi. Bây giờ thì nó đã có thể đến Gareth mà không sợ bị lạc, đồng thời nó có thể giải thoát hai người nô lệ ra khỏi tay bọn buôn người. Dù chỉ mới đến trưa, nhưng nó bỗng lại cảm thấy quá mệt mỏi, Korant chui vào một góc mát mẻ, đánh một giấc dài cho đến tối.

Nửa đêm, Korant bị đánh thức bởi tiếng ngựa hí. Bọn chúng đã đi mất trong khi nó còn đang mê ngủ.

Bừng tỉnh, Korant nhanh chóng thu gọn túi đồ, tháo dây cho con Rough rồi lên đường. Bọn chúng đã rời khỏi thị trấn từ mấy tiếng trước, Korant cho ngựa đi theo những dấu vết của xe bọn chúng để lại.

Từng phút trôi đi kèm với việc cảnh vật xung quanh bắt đầu thay đổi, đường trở nên khó đi hơn, đất mềm lại như đang níu lấy chân ngựa lún trên nền đất.

Chàng lữ hành đã đến hoang mạc Redorrlan.
 
Chương XVI: Đụng độ giữa Redorrlan

Những đụn cát trải dài khắp đường chân trời như làn sóng biển. Những cơn gió xoáy cuốn cát đỏ lên không trung. Trên nền đất cằn cõi rải rác những thân cây gầy guộc và xương rồng. Không khí nóng bức và khắc nghiệt như ngăn cản mọi loài sinh vật tới lui, trừ những loài chim di cư bay xuôi theo hướng gió đi đến Naoorlogs và những loài bò sát len lỏi trên mặt đất.

Không khí nóng khô như làm cho cổ họng Korant bị nghẹn lại. Dù rất khát nước nhưng nó chỉ uống một ngụm nhỏ, đa phần là để dành cho ngựa. Không có bản đồ và la bàn, nó chỉ có thể dựa vào mặt trời để xác định phương hướng.

Korant cho dừng ngựa để nghỉ ngơi dưới một bóng râm của đụn cát. Vừa mới đặt chân xuống nền đất nứt nẻ, hơi nóng như thốc vào mặt nó, nóng rát hết phần lưng, cổ và mặt.

Con ngựa khát tới mức uống hết số nước mà nó tích trữ vẫn không chán. Thiếu nước, nó đành phải nhắm mắt, đọc thần chú. Tuy mặt đất cằn cõi này sẽ khó khăn hơn đối với cát, nhưng nó vẫn cố gắng gom đầy hố nước.

Korant múc nước cho đầy mấy túi da. Phép thuật như hút hết sức lực của nó. Ăn uống xong, nó nằm xuống nghỉ ngơi cho tinh thần thoải mái rồi lại tiếp tục khởi hành.

Korant cố gắng di chuyển ra khỏi hoang mạc nhanh nhất có thể, vì dù đã vượt đến đây và không thấy bóng dáng của quân lính triều đình, nhưng nó biết chắc rằng tin nó trốn khỏi đây đã lan tới tai của Osward. Tụi pháp sư có thể đã được lệnh truy bắt nó, do vậy Korant cần vượt qua khỏi Redorrlan thì nó đã thành công trong một cuộc tẩu thoát.

Buổi sáng ngày thứ năm, Korant đã đi hơn bảy mươi cây số trên hoang mạc này. Sau một giấc ngủ dài, nó nhận ra sự lanh lợi của mình không còn được như trước. Gần ba tuần kể từ khi rời khỏi Uniq và chỉ ăn mỗi tinh bột làm nó ngán tận cổ.

Điều vui mừng duy nhất dành cho Korant trên những mảnh đất khô cằn này vào hôm nay là nó đã bắt đầu đuổi kịp bọn buôn người và chắc chắn nó đã đi đúng đường thông qua vết tro còn sót lại ở nơi bọn chúng đã nhóm lửa.

Korant đi tới một sườn đá vào lúc mặt trời lặn. Dốc đá đứng, phủ bóng râm lên cả người và ngựa. Những đụn cát rải rác chung quanh. Korant thả dây cho ngựa đi gặm cỏ, tuy không nhiều nhưng là đủ để cho con Rough ăn, thay vì sử dụng cỏ tốt trong túi dự trữ. Nó muốn để dành phòng cho trường hợp không một tí thức ăn nào cho con ngựa.

Trăng đã lên cao, không khí bắt đầu trở lạnh. Korant vội vàng nhóm lửa. Khi nó nhìn sang phải, ở phía xa có một đoàn lữ hành cũng đang nhóm lửa và đằng sau là một ngôi nhà với nhiều ngọn đuốc treo trên tường.

Nó muốn biết họ là ai, liệu có phải là lũ buôn người? Korant lấy tờ giấy ghi chú những câu thần chú và sử dụng loại phép thuật có thể giúp nó tăng khả năng của giác quan. Nó nhắm mắt, tập trung nội lực, lẩm bẩm câu thần chú:

- Senscresa.

Khi mở mắt, nó nhận ra mình có thể nhìn rõ những chi tiết nhỏ bé mà thông thường nó không thể thấy được. Korant chăm chú quan sát một thân cây gầy guộc mọc trên dốc đá, nó thấy rõ những lớp vỏ cây với nhiều tảng màu khác nhau, một chỗ gồ lên không cân xứng và những con kiến đang di chuyển theo đàn trên bề mặt. Nó không thể tin vào những gì nó có thể nhìn thấy. Thật kì diệu!

Korant liếc sang đoàn lữ hành. Darnoc đang ngồi nói chuyện vừa nhai ngồm ngoàm như chết đói. Bên cạnh hắn, là một gã nhút nhát, với mái tóc dài đến đến ngang vai, là kẻ đã đi cùng với Darnoc khi ở Harpln. Ở phía đối diện của Darnoc là một tên to con, hai bắp tay cuồn cuộn, cùng một thanh đao to tướng trên tay.

Không duy trì được lâu, Korant bắt đầu thở hổn hển, nó đuối sức và phải vội vàng ngưng sử dụng phép thuật. Mắt nó đau nhói và chỉ còn thấy những chấm đen. Nhanh trí, nó vội dập tắt đống lửa để bọn chúng không để ý trước khi mất hết ý thức và ngất xỉu. Phép thuật thật sự là một con dao hai lưỡi đối với những pháp sư.

Nửa đêm, Korant tỉnh dậy trong bộ dạng co ro dưới không khí lạnh lẽo trên hoang mạc Redorrlan. Môi nó dường như trở nên khô và bong tróc. Bụng đói cồn cào nhưng nó chỉ ăn một mẩu bánh mì lót dạ.

Korant hướng mắt về phía ngôi nhà, lũ buôn người đã dập lửa và đang chìm trong giấc ngủ. Nó lên ngựa và phóng thật nhanh đến ngôi nhà nhỏ của lũ buôn nô lệ.

Cửa nhà mở toang, bên trong tối thui và chỉ được hưởng một tí ánh sáng từ những ngọn đuốc bên ngoài. Hai người nô lệ hôm trước nó thấy đang ngồi bệt dưới đất, tay họ bị trói lên tường, họ tỏ ra sợ sệt khi thấy mặt nó. Cạnh bên là một nồi nước súp với vài miếng bắp cải lỏng lẻo.

Korant rủa thầm, máu nó sôi lên sùng sục. Korant sử dụng phép thuật để phá xích, tiếng xích chạm nhau khi rơi xuống nền nhà làm nó giật bắn người.

Nó trấn an hai người nô lệ. Chậm rãi đưa họ lên ngựa chạy trốn. Con ngựa cứng đầu của tên trùm hí vang lên khi Korant vừa chạm tay vào, đánh thức lão trùm buôn người tỉnh giấc. Korant tức tối càu nhàu. Ngay khi vừa tỉnh giấc, tên trùm liền ra lệnh cho tay sai:

- Chuẩn bị vũ khí, nhanh lên!

Hắn hướng thanh đao về phía nó, gã Darnoc thì giương cung, tên trùm nói:

- Mày vào để giải cứu lũ nô lệ hả? To gan lắm, nhóc con.

Korant không mang theo cung tên trên người, tay nó run lên vì sợ. Nó không thể nào đánh thắng chúng mà không sử dụng đến phép thuật. Nó giơ tay, thét lớn:

- Isirliar.

Ngay lập tức, một luồng sức mạnh xanh thẫm màu ngọc phát ra như một cục đá rơi xuống mặt hồ tĩnh lặng, đánh trúng lũ buôn người khiến chúng bật ngửa ra phía sau.

Nó nhanh chóng đưa hai người nô lệ lên ngựa của tên trùm tẩu thoát. Trong lúc lơ là, Darnoc bắn một mũi tên, cắm phập vào tay nó. Korant gào lên đau đớn, đưa tay giữ chặt vết thương.

Nó dùng phép thuật để đánh bại bọn chúng, nhưng lại không tài nào tập trung nội lực lại. Người nó trở nên rệu rã, mắt trở nên nổ đom đóm.

Mũi tên thứ hai bay đến nhanh như chớp. Nó cắm thẳng vào vai của Korant. Sức lực nó bỗng dưng vụt mất, thần chú quên sạch, rồi ngã gục xuống mặt đất.

Tên Dornac chạy tới chỗ tên trùm, đỡ hắn ngồi dậy. Tên trùm thở gấp như con chim hấp hối, run run nói:

- Sao mày lại sử dụng hàng cấm? Biết đắt tiền lắm không?

- Không dùng là ông chết rồi đấy, Torih. Bây giờ làm sao?

-Trói nó vào gốc cột ngoài nhà. Cướp hết lương thực và vũ khí của nó đi, rồi đưa hai đứa nô lệ đi tới Gareth bán. Khốn khiếp, gặp ngay một thằng pháp sư lo chuyện bao đồng!

Vừa nghe dứt câu, nó ngất đi do thứ chất cấm ky lạ. Những điều cuối cùng nó nhận thức được là cơ thể đang bị trói chặt bởi hai tên buôn người.
 
Chương XVII: Thung lũng Begalnis

Korant tỉnh dậy trong tình trạng cả hai tay bị trói chặt. Nó cảm giác phép thuật đã trở lại trong tiềm thức. Nó phấn khởi, rồi nhắm mắt lại, lẩm bẩm câu thần chú: “Natezsa”. Dây xích bỗng vỡ vụn, rơi xuống đất.

Nó lắc mạnh người, như cách con ngựa đang xua ruồi. Những vết thương trở nên bầm tím sau một đêm, những mũi tên đã được rút ra khỏi người nó. Korant cảm thấy may mắn vì ngất đi trong đêm, chứ không thì nó đã chết khô dưới cái nóng của hoang mạc.

Lương thực và nước uống của nó đã bị chúng cướp mất, trong túi đồ chỉ còn lại cung tên và mấy món đồ lặt vặt. Nhưng may mắn rằng chúng không bắt con Rough đi theo. Con ngựa đang cặm cụi gặm cỏ ở dốc đá đằng kia. Dù sao, Korant có thể tạo ra nước uống bằng phép thuật, nhưng còn thức ăn có lẽ sẽ phải tìm bắt bọ cạp và rắn rết.

Đói bụng, Korant đành bắt một con rắn gần đó ăn thử. Nó thét lên:

- Fieral.

Một ngọn lửa xanh được phóng ra từ tay nó, bay thẳng vào người con rắn chuông. Con vật chết ngay tức khắc, cả thân bị nướng chín, phần da bị khét vài chỗ, mùi thơm phảng phất ngay trong gió. Korant tách phần da bị khét ra, rồi xử lý con mồi. Thịt con rắn có vị ngọt và một chút mặn. Mùi tanh làm Korant khó chịu, mặt nó nhăn nhó, tuy chẳng ngon lành gì nhưng phải tập làm quen.

Ngày thứ tám, trời hây hây gió mát. Thỉnh thoảng sẽ xuất hiện vài con chim ưng hay đại bàng tung cánh bay lượn trên không trung. Korant bỏ qua bữa sáng vì phát ngán với món bò sát. Tinh thần của nó ngày càng giảm sút nhiều hơn, không còn lanh lợi được như lúc ở hoang mạc.

Sau khi nghỉ ngơi vào buổi trưa, lúc sửa soạn lên đường, nó bỗng một khối màu xanh hiện ra, trông giống như một quả đồi với nhưng gò mấp mô và bao phủ bởi nhiều cây xanh. Korant trừng mắt nhìn nó, vì nghĩ đây chỉ là một ảo ảnh trên sa mạc. Nó lắc đầu, dụi mắt. Nhưng khi mở mắt nhìn lại, khối màu xanh đã biến mất vào hư không. Korant chỉ biết thở dài, thất vọng.

Đến cuối ngày thứ mười một, Korant gần như đã ra khỏi hoang mạc Redorrlan, đất đai tơi xốp, màu mỡ hơn.

Nhận thấy không khí thoải mái, con Rough tung vó ngựa phi thẳng đến hồ nước, uống mãi không chán.

Từng bầy nai chạy nhảy trên đồi và đồng cỏ xanh tươi. Korant tủm tỉm thèm thuồng, đã quá lâu rồi nó chưa được ăn thịt một cách đàng hoàng.

Nó dắt ngựa lên ngọn đồi cắm trại. Một thế giới rộng lớn đang chờ đón nó ở hướng đông. Nó thầm tưởng là một ngọn đồi với đầy cây rừng bao phủ, nhưng khi nhìn lại thật kĩ, đó chính là chân của ngọn núi đôi khổng lồ và phần trũng ở giữa là thung lũng Begalnis.

Korant lặng người ngắm nhìn vẻ đẹp của thung lũng, vô cùng huyền bí và to lớn và cũng là thử thách cuối cùng để nó bước chân vào Inticnat.

Buổi tối, tuy mệt mỏi và tiều tụy nhưng nó lại vô cùng hạnh phúc. Ngồi bên ánh lửa, nó nở một nụ cười đắc thắng, tận hưởng một miếng thịt nai béo ngậy. Điều này là vô cùng xứng đáng với những gì nó đã trải qua. Với cuộc phiêu lưu này, nó hoàn toàn có thể tự hào với bản thân, và tự tin kể lại câu chuyện cho mọi người.

Nhìn lên những vì sao trên bầu trời, nó nghĩ đến việc dựng lên một ngôi nhà ở một nơi hoang vắng, trồng trọt và chăn nuôi, không phải lẩn trốn triều đình và binh lính, không cần phải chiến đấu. Nhưng rồi bản thân nó lại mang danh một pháp sư, và có thể những lúc nó yên bình trong giấc ngủ là những giờ phút ông Razid căng thẳng chạy trốn khỏi triều đình. Vẫn còn quá nhiều người cần nó giúp, những nô lệ,… Nó muốn gặp anh Cial để nói chuyện cho rõ ràng, nó phải chống lại Osward.

Korant thở dài, rồi vội vàng dập tắt đống lửa. Quá mệt mỏi, nó mang hình ảnh của quê hương mình vào giấc ngủ.

Sáng hôm sau, Korant thức dậy vào lúc sớm để chuẩn bị lên đường vào thung lũng Begalnis.

Những ngọn núi cao chót vót, đỉnh núi khuất sau những tầng mây dày đặc. Ở phía dưới thung lũng, là khu rừng với những cây rừng to lớn, thân cây to hơn cả một vòng tay người trưởng thành.

Korant chỉ mong rằng những sinh vật sống trong đó đừng to như những thân cây này.

Mặt trời ló dạng, Korant cùng ngựa tiến thẳng vào con đường duy nhất vào thung lũng, đi thẳng về hướng đông.

Ông Razid vẫn luôn căn dặn nó không được bước chân vào sâu trong những khu rừng già. Mà giờ đây, nó có thể thám hiểm những điều thú vị của rừng rậm mà không bị ai ngăn cản.

Những tán cây to lớn ngăn cản ánh nắng mặt trời chiếu xuống đất, tạo nên một bề mặt đầy rong rêu bao phủ, trở nên trơn trợt và vô cùng khó đi.

Korant vòng qua được một ngọn núi lớn vào đúng lúc mặt trời lặn. Nó thấy đường ở phía trước còn dài và ngày càng chật hẹp.

Ngay lúc đang gom các nhánh cây khô nhóm lửa, tiếng tù và bỗng rúc lên ngay sau lưng nó. Korant giật phắc người, có bộ lạc nào sống trong thung lũng chăng?

Tiếng tù và tiếp tục rúc lên, ngày một gần hơn. Kế tiếp, là những tiếng mũi tên vun vút bay trong gió. Tiếng hú đến rợn người của một con vật, thông qua tiếng của loài thú, nó đoán rằng con vật đó không hề nhỏ bé một chút nào.

Tiếng động ngày càng gần hơn. Korant hơi lo sợ, nó nhảy phóc vào bụi cây, đợi chờ xem có chuyện gì xảy ra.

Một con vật to lớn chạy đến cạnh đống lửa của nó. Con thú cao hơn hai mét, với hai chiếc nanh nhọn mọc ra ngoài, đôi mắt đỏ rực, hai tai nó có vành nhọn. Bàn tay của nó chứa đầy móng vuốt sắc lẻm , tưởng chừng như thứ đó có thể xé nát người Korant chỉ bằng một đòn tấn công, cùng một mũi tên ghim sẵn trên bắp tay.

Một mũi tên khác bay tới ghim thẳng vào lưng nó, con thú lại rít lên đau đớn nhưng dữ dội hơn khi nãy nhiều lần. Một tiếng cười man rợ bỗng phát ra từ trong bóng tối, làm Korant nổi hết da gà. Cuối cùng là một thanh kiếm dài, đính viên ngọc màu vàng lục ở chuôi được phóng tới, xuyên thẳng qua gáy của con vật. Nó ngã xuống, chết ngay lập tức.

Người thợ săn bước ra từ bóng tối, ông ấy đang cưỡi trên con linh cẩu. Bước xuống con thú, người thợ săn tiến lại gần hơn với xác con vật khi nãy, rút thanh kiếm của mình, chùi máu lên lưng con vật. Người Korant run cầm cập, vẻ mặt đầy lo sợ. Nếu ông ta có ý muốn tấn công, thì nó bại trận là cái chắc.

Trong không gian yên tĩnh của thung lũng Begalnis, nó chỉ còn nghe thấy tiếng tim của mình đập thình thịch liên hồi.

Người thợ săn đưa mắt liếc nhìn con Rough, đôi mắt anh ta như nhận ra điều gì đó. Con linh cẩu chậm rãi đi đến bụi cây, khịt mũi đánh hơi, rồi bắt đầu gầm gừ giận dữ.

Ông ấy lên tiếng:

- Ra đây đi! Không là anh bạn linh cẩu xơi tái cháu đấy.

Bị phát hiện, nó miễn cưỡng biết ra khỏi bụi cây. Ông ấy trạc tuổi cậu Palich, một người dà dặn dầy kinh nghiệm, mái tóc màu cam cùng một bộ râu xồm xoàm, một vết sẹo kéo dài từ thái dương đến miệng.

Korant quyết định ra mặt, nó hỏi:

- Ông là ai?

- Leathmor.

Con linh cẩu vẫn trừng mắt nhìn nó không rời một giây. Nó sợ sệt đưa tay chỉ vào con linh cẩu, nói:

- Ông có thể bảo cái con thú ấy thôi gầm gừ được không?

Gã thợ săn tủm tỉm, nói:

- Sợ à?

Nó tức tối gắt lại:

- Không, tôi có thể xử đẹp con thú vừa nãy đấy, huống hồ gì con chó nhỏ xíu này.

Lão cười lớn, hỏi lại:

- Thế tại sao lại trốn?

Ông ấy nhẹ nhàng vuốt đầu con linh cẩu, nói tiếp:

- Nó là linh cẩu chứ không phải chó săn. Tên của nó là Raidek, đừng vội coi thường, trí thông minh của linh cẩu còn hơn là loài tinh tinh. Nó luôn giúp bác tìm kiếm con mồi trong bóng đêm và truy lùng chúng.

Nó hỏi:

- Ông vào thung lũng làm gì?

Ông ấy vừa chỉ tay vào xác con vật vừa nói:

- Câu đó bác hỏi cháu mới phải. Bác là thợ săn trong vùng, nơi đây có nhiều con thú như thế, chúng gọi là Woal, một loài ăn thịt, có vóc dáng to lớn, cùng bộ răng nanh và móng vuốt vĩ đại. Đặc biệt, tiếng rú của chúng lại y hệt như tiếng tù và. Hai chiếc răng nanh của chúng rất có giá trị, dùng để trang trí và làm đồ trang sức cho mấy ông bà thuộc gia đình giàu có và họ sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để có chúng vì tin rằng sẽ mang lại may mắn, tiền bạc và danh vọng.

Korant thầm nhủ: “Rõ nhảm nhí. Ai lại đi mua mấy cái nanh này cơ chứ!”

- Được rồi, bây giờ cháu hãy nói cho bác biết cháu làm gì ở đây?

Korant phân vân, đắn đo một hồi rồi mới trả lời:

- Tôi đang trên đường đi đến thành phố Gareth.

- Cái gì? Vậy thì bác nghĩ rằng cháu đã đi nhầm đường rồi đấy!

Nó thắc mắc hỏi lại:

- Chẳng phải trong thung lũng Begalnis chỉ có mỗi một đường đi này sao?

Leathmor cười lớn rồi nói:

- Không, cháu lầm to rồi. Muốn ra khỏi thung lũng này, thì có hai con đường, những nhóm lữ hành họ sẽ đi theo con đường ở phía đông, men theo một dốc đá nhỏ ở rìa hoang mạc. Còn hướng này, là nơi lũ Woal sinh sống, chỉ có thợ săn mới dám bước chân vào.

Korant vẫn chưa tin tưởng ông ấy lắm, nó ước gì có ông Razid ở ngay đây thì ông đã biết được có nên tin tưởng Leathmor hay không. Tình hình bắt buộc, để đến Gareth sớm nhất và an toàn, nó quyết định liều mình đi theo Leathmor. Nó nói:

- Tôi hiểu rồi. Chúng ta đi thôi.

- Đi bây giờ chỉ có chết. Lũ Woal mạnh nhất vào ban đêm. Chỉ tầm khoảng hai giờ nữa, cả bác cũng không đấu lại. Tốt hơn hết là chúng ta nên tìm một chỗ thật kín để nghỉ ngơi, đợi đến ngày mai rồi khởi hành.

Trước khi đi, ông ấy lấy một cây búa, rồi đập vụn mấy cái nanh của con quái đem bỏ vào túi. Sau đó, dẫn nó theo một con đường hẹp, men theo dốc đá, rồi đi vào một hang động.

Hang rộng tầm ba thước nhưng sâu đến hơn mười lăm mét, hơi nhỏ nhưng lại quá đủ cho hai người. Con Rough luôn dè chừng con linh cẩu, nó cứ kêu lên ư ử và liên tục hốt hoảng như muốn lồng lên chạy trốn. Raidek chỉ đưa cặp mắt đáng sợ, kiêu hãnh liếc nhìn con ngựa rồi bỏ đi.

Họ nhóm lửa, rồi bác Leathmor bắt đầu xé thịt con Woal bằng dao găm, nướng lên. Thịt chín, ông ấy mời Korant ăn thử, nhưng nó từ chối vì tự nhủ rằng thịt mấy con vật nguy hiểm thì có bao giờ ngon. Ông ấy vẫn liên tục mời nó, Korant cảm thấy hơi áy náy. Nó nhận lấy một miếng nạt và ăn thử. Thịt con vật này ngon hơn những gì nó tưởng, béo ngậy và giòn tan.

Sau khi ăn uống no nê, ông ấy quay qua bảo nó:

- Ở đây tuy kín đáo, nhưng chưa được an toàn vì Woal biết leo trèo. Tốt hơn hết, chúng ta nên chia ra canh gác, mỗi người bốn tiếng.

- Cháu gác ca đầu. Bác ngủ trước đi.

Ông ấy gật đầu, rồi nói:

- Nếu có gì không ổn thì lay bác dậy.

-Chúc ngủ ngon.

Korant cột chặt con Rough. Nó dập lửa đi và chỉ để lại một ngọn đuốc trên thành hang. Korant bước ra ngoài cửa hang, thả hai chân lơ lững trên vách đá rồi ngắm cảnh và tận hưởng không khí trong lành của thung lũng.

Buổi sáng, họ bắt đầu khởi hành sau một bữa ăn với thịt và bánh mì của bác Leathmor. Họ tiếp tục đi vòng qua một khoảng núi. Họ đến được một con suối lớn vào buổi trưa.

Korant la lớn để át lại tiếng ồn từ những dòng chảy xiết ào ạt đổ xuống hồ Oors:

- Bây giờ chúng ta băng qua đây kiểu gì?

Leathmor nhướng mày suy nghĩ, rồi trả lời:

- Tốt hơn hết là nên đi vòng nếu cháu không muốn bị những dòng chảy xiết quật ngã.

Korant không muốn đồng ý vì đi vòng rất mất thời gian. Nó tiến lại phía bên trái của hồ, khu vực này có vẻ nông hơn và không còn những dòng chảy xiết, chỉ có vài dao động nhỏ xảy ra trên mặt hồ. Nó phấn khởi, la lớn:

- Ở đây có thể đi được!

Ông ấy tiến lại và đưa một cái nhìn xa xăm tới những dao động trên mặt hồ, rồi lắc đầu bảo nó:

- Rắn độc sống đầy ở đây, không đi được.

Korant thở dài chán nản, miễn cưỡng gật đầu chấp nhận. Leathmor nói tiếp:

- Lấy cho đầy nước vào túi da đi, sẽ còn khá xa nữa mới đến thành phố đó.

Korant biết rằng mình có thể tạo ra nước uống nhưng lại tự nhủ đừng sử dụng trước mặt ông ấy, bởi vì nó vẫn chưa biết Leathmor có ý đồ gì.

Đến cuối ngày, họ chỉ còn cách Gareth hơn hai mươi cây số. Hai người dừng lại nghỉ ngơi ở sau một lùm cây lớn. Ông ấy nói ở đây không còn là địa phận của Woal nhưng vẫn nên cẩn thận. Hôm nay Leathmor là người gác ca đầu.

Buổi sáng, cứ như thường lệ, họ tận hưởng bữa sáng qua loa rồi lên đường. Leathmor bỗng quay qua và hỏi nó:

- Này! Sau khi đến Gareth, cháu sẽ làm gì?

Korant đắn đo một lúc, nó không biết nên trả lời như thế nào, vì đề cập những việc liên quan đến phép thuật chỉ mang thêm rắc rối mà thôi. Nó nói:

- Cháu đến gặp một người bạn của ông cháu vì một số chuyện riêng tư. Còn bác?

Ông ấy tủm tỉm cười, rồi nói:

- Bác hả? Có chỗ nào dành một lão thợ săn già ngoài bán cho dân buôn mấy cái nanh này chứ.



Đến cuối ngày hôm đó, thành phố Gareth hiện lên sừng sững dưới ánh nắng dịu nhẹ của mặt trời đang dần khuất sau những đỉnh núi trong thung lũng Begalnis.

Thành phố được bao phủ được lớp tường thành cao mười mét, kiên cố và vững chắc. Phía trên bức tường là một lá cờ lớn đang bay phất phơ, nó mang hình một bông hoa hồng màu trắng và ngọn lửa xanh dương ở phía sau, nổi bật trên nên cờ đỏ. Cổng thành cao không dưới bảy mét, được chia làm ba cửa, một lối đi chính và hai lối phụ, chúng đều được xây theo dạng mái vòm. Bên trong là một tháp canh, được dựng lên cao hơn so với bức tường để lính gác quan sát được bên ngoài thành, những ngọn lửa từ những cây nến chập chờn rồi vụt tắt, nhưng nhanh chóng được châm lại.

Khi nhìn từ xa, bức tường thành như là một người khổng lồ luôn che chắn và bảo về thành phố. Korant vô cùng ngỡ ngàng, nó há hốc mồm kinh ngạc vì sự đồ sộ của nơi đây. Nó cùng Leathmor rảo bước trên con đường lót đá để đi vào thành phố. Cỏ dại mọc đầy hai bên đường, lác đác vài cây sồi cùng một vài loài hoa dại. Một vài con hải âu lủi thủi một mình hướng ra biển săn mồi.

Ông thợ săn tiến lại vỗ vai nó:

- Đi nhanh lên, lính gác hạ cổng trước sáu giờ đó.

Korant gật đầu. Leathmor một tay xốc lại cái ba lô nặng trĩu trên vai, một tay tu ừng ực túi da chứa nước, con linh cẩu đi sát bên, mắt lom lom nhìn về con Rough. Korant xuống ngựa, rồi đi bộ về phía cổng thành. Vừa tới trước cổng, một lính gác tiến ra chặn đường, lão nhìn vào con linh cẩu với ánh mắt e dè, rồi bĩu môi:

- Từ đâu tới?

Leathmor ấp úng một hồi rồi giờ cánh tay phải cản Korant ngay khi nó định nói:

- Tôi sống trong thành, thằng bé cũng vậy. Ra ngoài đi săn giải sầu ấy mà.

Tên lính gác ngó tới mấy cái ba lô nặng trĩu của hai người, hắn nói:

- Phiền cho tôi kiểm tra hành lý.

Ông thợ săn liền từ chối:

- Không, không. Đây là mấy món đồ cùng mồi và rượu quý. Tốt hơn anh không nên xem làm gì. Mất thời gian lắm.

Leathmor vừa nói vừa dúi vào tay hắn mấy đồng tiền xu. Tên lính hớn hở, tay bỏ mấy đồng tiền vào túi áo:

- Được rồi… Chỉ lần này thôi đấy.

Korant thầm nhủ: “Làm gì có lần sau”.

Sau khi đi vào bên trong, Korant làu bàu:

- Mấy tên lính gác làm ăn chẳng đàng hoàng gì cả.

- Những tên này đa phần làm việc là vì những đồng tiền để mưu sinh chứ ít có ai lại đi làm vì trách nhiệm cả. Chúng thường gây khó cho dân buôn và tin rằng họ sẽ đưa tiền đút lót để tránh phiền phức.

Leathmor cười rồi nói tiếp:

- Bây giờ cũng đã tối, nếu cháu đói bụng hay muốn uống một chút bia thì chúng ta sẽ đến quán Rollaw, ở giữa con phố lớn trong thành phố. Được uống chút bia sau mấy hôm đi săn luôn tuyệt cú mèo.

Korant rất muốn được thư giãn sau những dặm đường dài mệt mỏi, nhưng vì hoàn cảnh không cho phép, Korant đành từ chối:

- Cháu rất tiếc vì đã có việc gấp cần làm. Nếu có cơ hội cháu và bác sẽ gặp lại.

- Bác cũng mong vậy.
 
  • Like
Reactions: Phong Cầm
BẢN ĐỒ CỦA TRUYỆN
6417
 
Chương XVIII: Cháu không phải là một thằng ngốc!

Leathmor đi thẳng theo con đường nhỏ nằm bên trái rồi rẽ vào hẻm. Korant đứng nhìn cho đến khi ông đi khuất. Nó cùng con Rough sải bước về phía trước, thẳng theo lối đi chính của thành phố Gareth.

Cả thành phố rộng lớn được bao phủ bởi bốn bức tường thành to lớn, hùng vĩ. Điều này làm cho nó cảm thấy đôi chút khó chịu, như đang bị giam trong một nhà tù của người khổng lồ. Ở mỗi hướng đều có một lối vào tương tự như ở cổng đông.

Dọc theo đại lộ của thành phố vào buổi tối, con đường được thắp bởi ánh sáng trắng từ ánh sao, mặt trăng và những ngọn đuốc được đặt trong những chiếc lồng treo trên cột ven đường. Vệt bóng của Korant và Rough trải dài về phía sau lưng như hai người bằng hữu.

Những ngôi nhà được xây dựng san sát nhau, chen chúc trên từng mảnh đất. Đa số chúng đều được xây dựng theo một kiểu kiến trúc. Mái ngói, tường đá dày với nhiều màu sắc khác nhau, cửa sổ đa phần mang hình chữ nhật và được khắc hình chim muông sống động và bay bướm.

Những làn khói bếp được gió cuốn rồi bay vào không khí. Mùi thơm từ thịt quay làm nó nhớ tới những bữa ăn gia đình, được ngồi bên cậu, mợ và anh Cial, được nói cười rôm rả.

Trên đại lộ trải dài từ tây sang đông của thành phố Gareth, Korant nhận thấy người dân đi lại rất đông đúc, không như sự vắng vẻ nó thường thấy ở Uniq và Havardor.

Nó hỏi mọi người ven đường về ông Miracle nhưng tất cả đều lắc đầu không biết. Korant thở dài chán nản, nhìn lại số tiền mà ông Razid cho nó trước khi đi. Nó đếm thầm trong đầu, cũng được hơn ba mươi lăm đồng.

Nhớ lại số lương thực và cây cung ông đưa cho nó – tổng cộng không dưới một trăm Pranis. Nó lo lắng không biết tại sao ông lại dành cho nó quá nhiều vật phẩm.

Korant bước vào một quán rượu nằm bên trong một hẻm nhỏ bên phải đại lộ. Tên quán rượu là Blaksea. Bên trong nhỏ và chật nức, lẻ tẻ vài người khách, họ khoác cho mình chiếc sơ mi và lớp áo da cũ bên ngoài.

Một cặp móng vuốt của Woal được treo bắt chéo trên vách tường. Sàn gỗ của quán rượu cũ đến nỗi Korant cảm thấy thấy tiếng cót két khi đi lại còn lớn hơn cả tiếng nói chuyện. Nó tiến lại quầy, rồi nói:

- Cho một cốc bia lạnh.

Ngay khi chủ quán vừa đặt chiếc cốc bằng gốm với đầy bia lạnh bên trong, Korant liền hỏi:

- Ông có biết ai tên là Miracle không?

Chủ quán ấp a ấp úng một hồi, rồi nói:

- Tôi… biết nhưng… tôi nghĩ là cần thêm một chút gì đó, tiền phí… chẳng hạn. Cậu thấy đấy, việc buôn bán khó khăn quá…

Korant thở dài thất vọng, rốt cuộc thì lòng tốt của con người cũng chỉ xếp sau tiền bạc. Nó đặt thêm tám đồng lên quầy, tổng cộng là mười lăm đồng để có thể biết được ông Miracle sống ở đâu. Một số tiền quá đắt đối với Korant nhưng có thể mang rất nhiều ý nghĩa.

Lão chủ quán sáng mắt khi thấy số tiền Korant vừa đặt lên, lão tươm tướp:

- Cám ơn, cám ơn rất nhiều! Còn về câu hỏi của cậu. Nếu tôi nhớ không sai thì lão Miracle sống ở gần phía cổng đông của thành phố. Ông ấy là một thương gia thành đạt, nhưng trong hai tháng gần đây các chuyến hàng đi bằng ngựa hay tàu thuyền đều bị tấn công không rõ lý do.

Lão nói thêm:

- Không chỉ riêng mình ông ấy, mà hầu hết những thương gia lẫn cánh buôn đều bị như vậy. Không rõ nguyên do.

Korant hỏi lại:

- Có chuyện gì nghiêm trọng à? Cướp biển, gió lốc hay lũ Woal?

Chủ quán lắc đầu:

- Woal không đời nào tấn công con người, chỉ có con người mới làm hại chúng mà thôi. Theo tôi đoán là do phép thuật. Trong tất cả những chuyến hàng bị tấn công, hầu như không người nào còn sống sót quay về, xe ngựa và tàu thuyền vỡ tan tành thành hàng trăm mảnh vụn. Nếu có, thì họ cũng điên điên khùng khùng hoặc bị mất trí nhớ.

Korant bàng hoàng, chỉ biết thốt lên một câu duy nhất:

-Thật kinh khủng!

Nó đưa cốc bia lên miệng tu ừng ực, loáng thoáng bên tai vài câu chuyện phù phiếm của mấy gã say rượu bia.



Sau khi rời khỏi quán rượu nhỏ, Korant tiếp tục đi dọc theo con đại lộ, tiến thẳng về hướng đông thành phố. Nó tiếp tục quan sát các ngôi nhà, nó hướng mắt về trung tâm, rồi nhận ra càng sâu trong thành phố, nhà cửa lại cao dần nhưng chúng vẫn thấp hơn pháo đài.

Pháo đài như một trụ cột thẳng đứng, nằm ngay giữa trung tâm thành phố. Trên ngọn tháp sáng lên ánh đèn dầu.

Con đại lộ trải dài hết bề ngang của thành phố. Với hơn năm dặm đường đi bộ trong thành Gareth, Korant đã thấy loáng thoáng dưới lớp sương mù, lối vào của cánh cửa phía đông dần hiện ra cùng với lá cờ mang dấu hiệu giống hệt như ở hướng tây của thành phố.

Ở tại đây, Korant có thể nghe tiếng sóng vỗ rì rào, nhịp nhàng và mãnh liệt. Nó gợi lại cho Korant một bài ca về biển cả, những con thuyền và ngư dân được nghe thời ấu thơ.

Ôi Achiles của ta

Ta ước rằng có thể đến bên nàng

Ta sẽ giong buồm ra khơi

Dù cho biển xanh năng cách đôi ta ngàn dặm

Hay là núi rừng muôn vàn khó khăn

Ta cũng đến bên nàng

Để ôm trọn nàng vào lòng và hôn lên làn tóc ấy!

Những lời ngâm nga của cậu Palich chợt ùa về trong tâm trí của Korant. Lời thơ luôn ẩn chứa những ý nghĩa, vang vọng mãi trong kí ức con người yêu nghệ thuật.

Nó đi loanh quanh một vòng, rồi dừng lại trước một căn nhà hai tầng khi thấy một người phụ nữ cao tuổi ngồi trên một chiếc ghế đẩu trước cửa nhà. Tay bà khéo léo, uyển chuyển vá cái áo thun thô bằng chỉ vàng.

Cửa hàng quần áo treo một tấm bảng hiệu vui mắt và dễ thấy, trang trí hình hoa lá và bươm bướm bay lượn. Bên trong cửa hàng tối đen như mực. Thông qua mặt kính lớn hình chữ nhật, Korant lờ mờ thấy ánh sáng màu xanh thẫm vô cùng huyền ảo cùng con chim bồ câu đang đứng trong lòng.

Nó tiến lại gần chiếc ghế đẩu nơi bà lão đang ngồi, lên tiếng hỏi:

- Bà biết nhà ông Miracle chứ?

Bà lão ngước lên nhìn nó, lấy tay phủi mấy cọng chỉ còn vướng trên đùi, rồi nói:

- Biết.

- Tốt quá. Chỉ giúp cháu với.

Bà lão không nói năng gì, rồi tiếp tục cậm cụi với công việc may vá. Korant thắc mắc, nhưng đợi khoảng một phút sau bà lão vẫn chưa thèm lên tiếng. Nó hơi bực tức, lên tiếng càu nhàu:

- Sao bà không trả lời cháu?

Bà lão nhíu mày, Korant có thể thấy rõ những nếp nhăn hằn trên trán và hai bên thái dương của bà. Bà lão nạt nó:

- Cháu phải hỏi đàng hoàng đầy đủ thì lão mới trả lời được chứ! Nói chuyện với người lớn mà trống không vậy, ba mẹ cháu không dạy cháu ăn nói lễ độ hả?

Korant cảm thấy như thể bị xúc phạm, bởi vì nó là một thằng không có cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, nhưng ít ra cậu Palich và mợ Quatarin vẫn luôn chỉ dạy nó từng thứ một. Hơi khó chịu, nhưng rồi nó cũng nhận lỗi:

-Cháu xin lỗi. Vậy bà có thể sẵn lòng cho cháu biết được nhà của ông Miracle nằm ở đâu không ạ?

Bà lão tỏ ra hài lòng. Bà mỉm cười với nó một cách dịu dàng. Những nét tức giận bỗng hóa thành sự hiền hậu chỉ trong chốc lát. Bà lão nhẹ nhàng trả lời nó:

-Rất sẵn lòng là đằng khác. Nhà của ông ấy nằm đối diện với cửa tiệm này.

Korant cúi đầu cám ơn, rồi thở dài nhẹ nhõm. Nó vội vã dắt con Rough băng qua bên đường.

Đã hơn chín giờ đêm, những vì sao bắt đầu hiện lên đông đúc, chen chúc trên bầu trời đêm như những hạt ngọc đính trên một chiếc áo nhung màu đen tuyền. Chúng ban xuống mặt đất những luồng ánh sáng trắng trong trẻo và tuyệt đẹp. Tay Korant run lên vì lạnh - do nó chỉ mặc duy nhất chiếc áo da.

Đứng trước chiếc cửa gỗ sơn màu nâu đỏ và những bậc thềm đá, Korant vô cùng mừng rỡ vì vẫn còn lấp ló ánh đèn vàng chập chờn của nến qua ô cửa sổ hình vuông.

Nó gõ cửa bốn lần những chưa có một người nào bước ra. Korant nghĩ, tất cả bọn họ đã ngủ mà quên tắt nến hay là bà già đằng kia đã lẫn nên chỉ nhầm.

Khi nó gõ cửa lần thứ sáu, một người hầu cùng ria mép nâu trong bộ áo trang trọng xuất hiện.

Korant lên tiếng:

- Rất xin lỗi vì đã làm phiền vào giờ này! Nhưng cho cháu hỏi đây có phải nhà của ông Miracle không?

Ông hầu trong khuôn mặt già dặn, có lẽ ngang hoặc lớn tuổi hơn cậu Palich. Lão đưa mắt nhìn nó từ đầu đến chân.

Da mặt lão nhăn lại vì khó chịu, hai hàng ria mép nhúc nhích khi người hầu nói:

- Tôi đoán chắc là cậu không có ý muốn gặp ông chủ vì những chuyện cỏn con đúng chứ? Ông chủ rất bận rộn với hàng đống những giấy tờ và hợp đồng làm ăn còn phải xem qua. Tôi chắc chắn một điều rằng là câu chưa có hẹn trước với ông, do ông chủ không bao giờ có lịch hẹn muộn đến vậy. Nên tôi e rằng là ông chủ sẽ không thể tiếp cậu được.

- Dạ…Nhưng cháu có chuyện gấp cần gặp ông Miracle.

Mặt ông hầu đanh lại, rồi trả lời:

- Tôi nói là ông ấy bận.

Korant hơi lo lắng, vì nó còn không thể nào có cơ hội được gặp mặt ông lão Miracle để nói chuyện, huống hồ là học phép thuật từ ông ta. Một ý tưởng bỗng lóe lên như kéo Korant khỏi đầm lầy tuyệt vọng.

Nó nhanh chóng lấy bức thư - được ông Razid viết từ trước - trong bao đồ trên lưng ngựa, rồi đưa cho người hầu và nói:

- Nếu vậy, cháu xin nhờ đưa giúp lá thư này cho ông Miracle và nói rằng có một người quen ở Havardor gửi cho ông ấy.

Lão người hầu càu nhàu một hồi rồi đi khuất vào bên trong. Sau khi cánh cửa màu nâu đỏ được đóng lại chừng năm phút, một người đàn ông – lớn tuổi hơn tên hầu – xuất hiện.

Korant đoán chắc đây là ông Miracle – người thầy mà ông Razid nhắc đến. Ông đã trạc ngoại thất tuần, có ngoại hình mảnh khảnh, cao hơn Korant một chút. Ông sở hữu mái tóc xoăn, đen, lốm đốm vài sợi bạc. Khuôn mặt nhiều góc cạnh và nếp nhăn, đôi mắt hốc hác cùng nhiều quầng thâm và chân chim. Chiếc mũi khoằm cùng vết sẹo kéo dài từ má trái xuống cằm. Ông Miracle mặc bộ áo sơ mi và quần, khoác thêm một chiếc áo choàng dài. Tay bên phải đeo ba chiếc nhẫn ở ngón cái, trỏ và út.

Ông lão ngạc nhiên hỏi:

- Cháu là Korant?

Korant lẳng lặng gật đầu. Ông mỉm cười rồi vui vẻ nói:

- Ôi, ông không ngờ có một ngày được gặp lại cháu.

Korant thắc mắc, nó liền hỏi:

- Ông biết cháu từ trước?

- Chuyện dài lắm, nhưng bây giờ thì có lẽ là chưa thể cắt nghĩa hết cho cháu được. Nhưng trước tiên vào nhà đã, bên ngoài lạnh lắm.

Korant càu nhàu:

- Bí ẩn như ông Razid.

Ông Miracle hướng dẫn Korant cột con Rough rồi dắt nó vào bên trong nhà. Điều đầu tiên làm nó chú ý là mùi hoa oải hương thơm dịu trong khắp căn nhà. Sàn gỗ sạch bong như vừa được lau dọn.

Ông dẫn nó đi qua phòng khách rồi tiến lên lầu. Qua một hành làng dài với nhiều phòng bị bỏ trống, Korant nhận ra căn nhà thật vắng vẻ - chỉ có một người hầu và ông Miracle. Khi đi trên hàng lang rộng, nó quan sát thấy có nhiều bức vẽ độc đáo như làm từ sơn dầu nhưng khi nhìn kĩ lại thì nó lại làm bằng một chất liệu khác.

Cuối cùng, họ bước vào một thư phòng. Nếu Korant là một người thích đọc, chắc chắn nó sẽ bị choáng ngợp bởi số lượng khổng lồ của sách quí được xếp thành hàng trên những bức tường ở tại đây.

Ở cuối thư phòng là một chiếc lò sưởi bằng gạch men, ông Miracle cho thêm củi vào để sưởi ấm. Ông chỉ tay về hướng những khúc củi bên trong, lẩm bẩm câu thần chú. Sau một tiếng bóp, ngọn lửa bùng bùng cháy lên. Korant không tỏ ra bất ngờ vì chính nó cũng có thể làm được như vậy.

Ông Miracle ngồi xuống bàn làm việc. Hết choáng ngợp vì sách, nó lại tiếp tục bàng hoàng về những đống hồ sơ, giấy tờ và hợp đồng nằm chồng chất trên bàn như ngọn núi trong dãy Parolance.

Ông cầm chiếc chuông tay màu bạc bằng nhựa. Sau một tiếng lắc – chưa tới một phút sau – lão người hầu xuất hiện. Miracle hỏi Korant:

- Cháu muốn dùng gì không? Một chút rượu và bánh nhé!

Nó gật đầu, rồi ông quay qua bảo gã hầu:

- Pelif, cho tôi bánh táo cùng rượu vang trắng.

Người hầu cúi đầu, rồi đi ra khỏi thư phòng.

Sau một hồi quan sát chiếc cửa sổ tối đen như mực, ông Miracle ngả người trên ghế, rồi nói:

- Không tin được có một ngày ông lại được gặp cháu.

Korant gật đầu. Sau một hồi băn khoăn, nó lên tiếng hỏi:

- Nhưng bây giờ cháu có một số thứ muốn biết rõ.

Không đợi ông Miracle trả lời, nó tiếp tục nói:

- Tại sao ông lại biết cháu từ trước? Việc triều đình cho đốt làng Havardor và truy bắt thằng nhóc nhà quê như cháu?

Thấy ông Miracle có ý không muốn trả lời nó, Korant tiếp tục:

- Cháu thấy tính cách của cả hai ông giống hệt nhau, luôn che giấu hầu hết những gì cháu muốn biết.

Sau cái thở dài, Korant nhoẻn miệng cười đau đớn:

- Chẳng lẽ sau những cố gắng một mình trốn chạy khỏi những pháp sư tiền bối của triều đình, băng qua hoang mạc và thung lũng Begalnis của cháu không xứng đáng để có thể hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra ư? Là vì cháu không đủ tư cách sao? Hay lại là một câu từ chối khéo: Chưa đến lúc để giải thích cho cháu chuyện này, như cách mà ông Razid thường làm.

Korant không thể nào diễn tả nổi những sự ấm ức của chính bản thân mình. Cổ họng nghẹn ngào như một bức tường tư tưởng ngăn cản nó không nói ra được câu nào nữa. Nó tiếp tục:

- Khi quay về và thấy làng Havardor bị thiêu rụi, gia đình và tất cả mọi người trong làng bị giết, cháu còn chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, nào là phép thuật, pháp sư. Cháu thì có gì liên quan đến triều đình chứ. Từ nhỏ đến lớn chỉ ru rú trong một ngôi làng nhỏ, săn bắt và trồng trọt. Mọi thứ ập đến cuộc đời cháu quá bất ngờ, không ai giải thích. Thật sự… cháu đã quá mệt mỏi.

- Mọi chuyện thực sự đã đi quá xa so với những gì mà cháu hiểu. Chẳng con người nào lại làm những thứ mà mình còn không hiểu gì về nó.

Nó lắc đầu, rồi thét lên:

- Cháu không phải là một thằng ngốc!
 
Chương XIX: Giải đáp

Nhấp một ngụm trà trong tách đặt trên bàn làm việc, ông Miracle nghiêm trang nói:

- Korant! Thực chất, Razid cũng không muốn giấu cháu những chuyện đó để làm gì. Những thứ này đâu hề mang lại cho ông ấy lợi ích gì ngoài kéo thêm rắc rối, phải không?

Korant gật đầu, rồi Miracle cao giọng nói tiếp:

- Cháu thấy đấy. Nếu đã không muốn giúp thì Razid đã giao nộp cháu cho triều đình để xong việc rồi, chứ đâu cần phải lên kế hoạch để cháu tẩu thoát.

Ông Miracle ngưng bặt khi Pelif mang khay bánh và rượu vào thư phòng. Lão rót rượu vào hai ly pha lê, rồi lui ra ngoài. Sau một ngụm rượu vang, ông nhẹ nhàng nói:

- Cháu có biết lý do vì sao ông ấy chưa muốn trả lời những câu hỏi của cháu không?

Korant tức tối:

- Là vì ông Razid cho rằng chưa cần thiết, hay chỉ đơn giản xem cháu như một đứa trẻ năm tuổi.

Ông Miracle bỗng bật cười làm cho nó mím chặt môi vì giận, ông mỉa mai:

- Câu nói đó làm cháu thực sự giống như một đứa trẻ lên năm rồi đấy.

Miracle bỗng nghiêm mặt, ông nói:

- Bây giờ, nếu cháu thực sự muốn biết câu trả lời của những thắc mắc bấy lâu nay, thì ông sẽ đứng ra giải đáp chúng.

- Trong cuộc sống, sẽ có những chuyện mà cháu hiểu biết tường tận về nó, cháu sẽ mang thêm rắc rối vào người.

Korant thắc mắc, nó hỏi:

- Tại sao ạ?

Nhấp một miếng rượu, ông nói tiếp:

- Tư tưởng hay nói nôm na là tất cả những gì chúng ta suy nghĩ, định hướng, phân tích, đánh giá và kết luận. Như cháu đã biết, phép thuật có thể hỗ trợ con người ở nhiều mặt, cả đời sống vật chất và tinh thần. Với những pháp sư có nội lực cao cường, họ hoàn toàn có thể thâm nhập vào tư tưởng của cháu để hủy hoại tinh thần, tìm ra những hành động tiếp theo của cháu và gây đau đớn đến tột cùng bằng những kí ức mà cháu muốn được lãng quên. Đây là một trong những mấu chốt quan trong để giành chiến thắng trong những trận đánh. Razid không cho cháu biết vì sợ rằng bọn chúng sẽ lấy các thông tin mật từ cháu.

- Vậy làm sao cháu có thể ngăn cản điều này?

- Để cản một đường kiếm chí tử, cháu sẽ làm gì?

- Quá đơn giản! Chúng ta sẽ chặn nó bằng bản kiếm hoặc khiên.

- Đúng vậy. Chính xác hơn, là chúng ta sẽ phòng thủ. Đối với tư tưởng, cháu sẽ không thể bảo vệ nó bằng khiên hay bản kiếm, mà sẽ là rào chắn. Tuy vậy, để có thể học được cách tạo ra và giữ vững rào chắn tư tưởng thì cần phải luyện tập và không ngừng luyện tập.

- Cháu cần bao nhiêu lâu để thuần thục chúng?

Ông lắc đầu, rồi nói:

- Chuyện này không thể mà tính trước được. Nó tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận và thực hành của mỗi con người.

Miracle tằng hắng, ông đặt lá thư lên bàn:

- Hi vọng cháu đã hiểu. Bây giờ, ông sẽ chỉ tiết lộ cho cháu những thứ cần thiết mà ông Razid cho phép, được chứ?

Ông Miracle lấy một phần bánh táo đưa cho Korant và đặt một phần vào dĩa của mình, ông nói:

- Trước khi vào câu chuyện, cháu ăn thử phần bánh táo đi. Ngon lắm!

Những lúc đang căng thẳng thì chẳng ai lại có tâm trạng để ăn uống cả. Nó miễn cưỡng thử một miếng. Mùi thơm thoang thoảng như cuốn hút người thưởng thức, vị bánh đan xen giữa vị ngọt và chua, lớp vỏ bên trên giòn tan, đọng lại hương vị trên đầu lưỡi.

Ông lão lại tiếp tục với một chút rượu, rồi ngồi thẳng lưng, cao giọng kể:

- Để giải thích cho cháu hiểu rõ nhất thì ông sẽ thuật lại toàn bộ câu chuyện từ mười sáu năm về trước, nó sẽ giải thích được những câu hỏi của cháu về làng Havardor và việc Osward cho người săn lùng cháu.

Sau sự kiện nhà vua Oorlog XVII qua đời, triều đình bắt đầu xảy ra nhiều mâu thuẫn nhưng chỉ xoay quanh một vấn đề duy nhất: Ai sẽ là người tiếp theo kế vị ngôi vương!

Naoorlogs theo chế độ quân chủ, nhưng bao giờ có việc con cái được kế thừa ngai vàng của cha mình. Đời vua tiếp theo sẽ luôn được bầu cử bằng sự tin tưởng của người dân đặt lên họ. Vì đức vua Iginas quan niệm rằng: Một đất nước mạnh không những có người lãnh đạo sáng suốt mà họ phải có được lòng dân. Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.

Osward luôn muốn có được ngai vàng, để được cai trị người dân, thiết lập một đất nước theo hắn muốn. Như ngay lúc này, hầu hết người dân đều căm phẫn hắn, nhất là những người có gia đình và người thân bị hắn hãm hại. Hắn độc ác và tàn nhẫn như cách mà hắn thẳng tay ra lệnh đốt làng Havardor vậy.

Korant tức giận, tay nó nắm chặt lại vì hận thù. Ông Miracle nói tiếp:

- Tất nhiên, người dân sẽ không để hắn có được ngôi vương đơn giản như vậy. Họ tổ chức những cuộc hội họp ở các nhà thờ để tìm kiếm một vị vua kiệt xuất anh minh.

Kaydoc được biết đến như một cận thần đại tài, võ nghệ xuất chúng, uy tín toàn quân và rất tôn trọng nhân nghĩa. Họ xem ông như vị cứu tinh để chống lại việc Osward sẽ đắc cử ngôi vương.

Mười ngày sau, tang lễ vua và cuộc bầu cử được diễn ra suôn sẻ. Kaydoc lên ngôi và trở thành vị vua Oorlogs XVIII. Người dân hầu như đều nhận ra vẻ mặt tái đi vì giận của Osward trong suốt buổi bầu cử. Nhưng không bao lâu, Osward tạo ra một kế hoạch dã man nhất trong cuộc đời đầy tội lỗi của lão. Hắn tung tin đồn về Etarith – người đội trưởng vùng Heddwich – với bằng chứng Etarith là người cuối cùng gặp mặt đức vua trước khi ông qua đời. Tố rằng ông đã bỏ thuốc độc vào rượu của đức vua lên cho Kaydoc. Dĩ nhiên, Osward làm vậy là vì đối với hắn, Etarith là kẻ ngáng đường số một cần phải tiêu diệt.

Kaydoc vô tình bị thuyết phục bởi những bằng chứng hợp lý và ăn khớp nhau như các bánh răng. Do vô cùng nôn nóng được trả thù cho đức vua mà ông luôn tôn trọng, Kaydoc không hề xem xét cho rõ những lời nói của Osward có đúng sự thật hay không. Ngay lập tức, Kaydoc điều Osward cùng hai đạo quân gồm những lính tinh nhuệ do Kaphal chỉ huy để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

Etarith cũng được một người hầu cận thông báo về việc ông bị truy lùng khắp nơi khi còn đang ở thành Summrta.

Miracle ngưng lại một nhịp, rồi kể tiếp:

Là một người ngoài cuộc, ông không thể biết thực hư ra sao, nhưng có lẽ lão tướng vùng Heddwich là người giết đức vua. Vì chưa ai có đủ bằng chứng để chứng minh ông vô tội, mà họ chỉ đồn đoán qua loa.

Trong một trận đánh mà ông và Razid quan sát được khi đang trên đường quay về làng Horita, đó có lẽ là sự chấm hết cho những vinh quang mà ông gặt hái được trong cuộc sống. Etarith và vợ ông ấy bị bắt đi. Cô ấy cũng từng là một pháp sư có tiếng trong thành Summrta, nhưng lại bị hủy hoại hết nội lực khi bị bắt tại nhà tù Boalwinls.

Thở dài một hơi, ông lão ngước đầu lên trần nhà quan sát. Ông kể tiếp:

- Điều kì diệu nhất đã xảy ra, khi chính ông và Razid hợp tác với nhau để cứu đứa bé mới sinh ra khỏi vòng vây bao gồm binh lính, xe nỏ, lửa và xác chết.

- Đó có phải là…

Ông nhè nhàng gật đầu:

- Chính là cháu!

Vậy là nó có cha mẹ, chứ không như mọi người trong làng thường bảo. Nó không mồ côi, ít nhất thì cũng từng được bao bọc trong tình yêu thương của hai người. Cảm xúc ngổn ngang, đan xen lẫn niềm vui và tức giận. Nó vui vì có cha có mẹ, từng có được sự yêu thương của họ, nhưng lại tức giận vì họ lại ra đi rồi để lại một mình nó gánh chịu lại hậu quả mà cha nó đã gây ra.

Korant lắc mạnh người, như xua đuổi đi hết những sự tiêu cực còn lại trong tâm trí. Nó hỏi:

- Nhưng ông có chắc cháu là con hai người họ không?

Ông lão lẳng lặng gật đầu. Nó tức giận vì nhiều cái, nhưng hầu hết là những điều vô lý. Cả hai im lặng một hồi, ông lão nói tiếp:

- Sau một hồi phân vân, ông và Razid phối hợp, ông tạo một tia sáng bằng phép thuật khiến bọn chúng bị mất đi thị giác trong khoảng một phút, Razid thì dịch chuyển để đưa cháu ra khỏi vòng vây.

Mặc dù việc để mất cháu không nằm trong dự tính của Osward, nhưng nó vô tình trở thành cơ hội để hắn thừa danh vua để xóa bỏ làng Horita – nơi mà người dân ghét hắn đến tận xương tủy.

Đôi mắt ông hằn lên sự phẫn nộ, giọng nói chứa đựng tràn trề xúc cảm:

- Razid đã làm những điều ngu ngốc nhất trong cuộc đời, việc cứu cháu đã trở thành nguyên nhân lớn khiến Osward có được ngày hôm nay. Nhất tiễn hạ song điêu! Kaydoc bị hủy hoại thanh danh và làng Horita bị tiêu diệt là thứ Osward đạt được chỉ sau một nước cờ.

Chỉ sau đúng một ngày, đoàn binh tinh nhuệ được Kaphal chỉ huy đã tấn công làng. Người dân hầu như không biết chuyện này, tất cả họ đều bị phục kích khi còn đang say giấc ngủ. Lũ lính như những con quỷ khác máu, chúng thẳng tay sát hại hết tất cả các em bé sơ từ một hai ngày cho đến một tháng tuổi. Những ai ra sức chống lại thì cũng đều bị hạ gục.

Trong lúc đó, Razid và ông cũng chẳng hề biết làng Horita bị tàn phá. Bọn ông đi thẳng đến Eroam, một thị trấn nằm giữa Heddwich và Woodhill.

Ông Miracle chưa kịp kể tiếp, Korant đã lên tiếng hỏi:

- Cháu chẳng hiểu gì cả! Heddwich, Woodhill là gì? Cả tiền trạm Eroam nữa!

Ông Miracle lập tức lấy từ trong túi tấm bản đồ đất nước Naoorlogs, Korant nói tiếp:

- Cháu còn không thấy chúng trên bản đồ nữa.

Ông Miracle vẫn bình tĩnh, gương mặt ông bình thản, nhưng lại hằn lên chút phiền não. Miracle vừa trải tấm bản đồ cũ rích của đất nước Naoorlogs rồi thẳng thắn khẳng định:

- Như ông đã nói cho cháu, xóa bỏ đi tất cả mối nguy là mục tiêu của Osward. Biết trước làng Horita sẽ là nơi phản đối gay gắt nhất đối với lão trên con đường đoạt lấy ngai vàng. Và dù cho ai cũng biết lui đến Eroam để nghỉ ngơi qua đêm nếu đang trên đường đến Horita hay Heddwich là một ý tốt. Việc hắn đưa quân đến Horita chỉ có chủ đích duy nhất là thiêu rụi ngôi làng này mà thôi!

Giọng ông dịu xuống:

- Osward dù có nhiều tật xấu nhưng hắn thật sự là một kẻ tinh xảo và khôn khéo trông mọi đường đi nước bước.

Sau vụ việc hôm đấy, vợ và con của Razid đều hi sinh vì bị giết bởi một tên lính tinh nhuệ khi họ đang cố bảo vệ trẻ em trong làng. Biết tin, Razid đau đớn đến tột cùng. Ông ấy như người mất hồn, điên cuồng và không còn sức sống. Bằng cách chiêu dụ âm hồn, Razid tăng cường nội lực của chính bản thân mạnh mẽ vô cùng.

Âm hồn đáng sợ kia tự xưng là Erill, nó đưa ra một giao ước với Razid- kẻ đã triệu hồi linh hồn đó. Thứ Razid nhận được là toàn bộ sức mạnh khủng khiếp trong người Erill.

Dù cho ông đã cố can ngăn Razid, vì việc chiêu dụ âm hồn sẽ lấy đi vĩnh viễn một lượng lớn nội lực trong người cháu để chuyển hóa thành nguồn năng lượng cho linh hồn kia. Nếu chẳng may cháu không có đủ nội lực cho chính linh hồn đó, nó sẽ lấy chính linh hồn và thể xác của cháu. Hơn thế nữa, hầu như phép thuật của chúng ban tặng đều xuất phát từ Phantom.

Ông Miracle rùng mình sợ sệt, nhưng sau một ngụm rượu vang ông lão không còn nhắc đến chuyện đó nữa. Nhìn thẳng về mắt của nó, ông tiếp tục:

Ba ngày chuẩn bị và kêu gọi tiếp viện ở vùng Woodhill. Phe chúng ta sẵn sàng cho một trận đánh trả một mất một còn. Razid là người chỉ đạo cả đoàn quân. Tuy đã có thêm trợ giúp nhưng binh lính của phe ta cũng chỉ bằng một phần năm so với triều đình.

Dù cho vậy, nhưng chúng ta vẫn không ngại khi chiến đấu trực diện với chúng. Razid cho quân tấn công ở hai đầu cổng bắc và tây.

Trận đấu đó ông không tham gia vì Razid có ý định đưa những người còn sống sót đến những vùng xa xôi ở phía đông nam. Việc thuyết phục diễn ra suôn sẻ vì ai cũng sợ bị liên lụy. Hơn một trăm năm mươi người đi theo, một phần dừng lại và chọn Uniq làm nơi sinh sống, còn lại thì đã tạo dựng nên Havardor, trong số đó có Palich và mợ Quatarin của cháu.

Theo luật pháp do đức vua Iginas lập nên, thì người dân không được phép lập nên bất cứ ngôi làng nào mà vua không cho phép. Đó là lý do vì sao Osward thẳng tay cho thuộc hạ đốt làng của cháu ngay khi phát hiện.

Trận đánh thắng lợi hoàn toàn khi phe ta chỉ mất khoảng ba trăm người. Osward hoàn toàn thua trận, mất đi lão tướng Kaphal trong trận đánh. Cứ tưởng vì thế mà lão sẽ suy sụp tinh thần. Nhưng không, chỉ nửa tháng sau trận đánh ở thành Summrta, Osward lộ mặt để sẵn sàng chinh chiến.

Razid sau khi bị âm hồn tàn phá gần hết nội lực trong cơ thể. Ông ấy không còn khả năng chiến đấu nữa.

Korant liền hỏi:

- Đó là lý do ông trở nên yếu vậy sao?

Miracle gật đầu, ông lão tiếp tục:

- Những quyết định cuối cùng của ông ấy có thể là sai lầm, làng Horita chính thức bị xóa sổ bởi ma pháp của Osward, những người còn sống phải ẩn trốn trong núi lập nên hội Ám Hoàng chờ này phục thù. Razid quay về Havardor. Dù ông bị mọi người ghét bỏ vì làm cho mọi người gặp vô vàn khó khăn, nhiều người thân của họ cũng đã phải bỏ mạng sau các cuộc chiến.

Nhiều người nói ông lão bị điên vì đẩy vợ con chết và dân làng mất hết đất đai ruộng vườn và sự nghiệp.

Không còn cách nào để nói lời xin lỗi và ông ấy cũng biết chắc rằng dù có cho họ bao nhiêu tiền bạc hay xin lỗi chân thành đến cỡ nào thì cũng không thể nào bù đắp được những nỗi đau tinh thần khi phải nhìn thấy người thân mình bị giết. Razid chỉ còn biết phụ giúp mọi người trong công việc để một phần bù đắp cho họ, nhưng có lẽ ông ấy cũng chẳng quan tâm nếu như bọn họ không tha thứ, Razid chỉ biết chấp nhận vì những lỗi lầm mình gây ra. Lão gửi cháu cho gia đình cậu Palich chăm sóc vì ông ấy sợ có một ngày Osward tìm đến và giết hại cháu vì hắn ta cho rằng con của kẻ thù số một sẽ còn là mối nguy hại hơn ngàn lần hay có thể cháu sẽ đầu quân cho lão bạo chúa này.

Osward tiến hành xóa bỏ tất cả kí ức của người dân về quá khứ đen tối của lão cho truyền cho họ một ý nghĩ: hắn là người hùng đã đưa họ thoát khỏi lũ tạo phản ở làng Horita. Người dân sẵn sàng tin tưởng hắn như những con rối, cho lão điều khiển để tạo dựng đế chế riêng mình.

Tuyệt vọng, ông rời bỏ Naoorlogs để đến Gareth tạo dựng lại sự nghiệp cho bản thân mình. Razid thì quay về Havardor để dạy dỗ và trông nom cháu.

Thở dài một tiếng, ông Miracle hỏi nó:

- Cháu còn điều gì muốn hỏi không?

- Không biết ông Razid có viết điều này bên trong lá thư hay không, nhưng tại sao anh Cial lại khai với Osward về làng Havardor.

Trầm ngâm một hồi, ông mới nói:

- Ông không rõ tính tình cậu ấy từ nhỏ đến lớn ra sao, nhưng nếu một người mà đã quay lưng để phản bội với quê hương mà anh ta từng sinh sống thì hẳn là một người máu lạnh và vô cảm.

Korant bật người đứng dậy, nó quát:

- Anh Cial không phải là người như vậy!

Miracle vẫn thản nhiên nhìn nó. Sau một lúc, nó đã nguôi giận, Korant bình tĩnh nói:

-Anh Cial là người tốt, ít ra là cháu nghĩ vậy.

Uống chút rượu cho thấm giọng, Korant nói tiếp:

- Tại sao trong trận đánh tại thành Summrta ông không ở lại giúp Razid? Tại sao ông Razid lại chọn cách ở lại Naoorlogs mà không cùng cháu lên đường đến đây? Chẳng phải ở lại đó sẽ nguy hiểm hơn sao?

- Đơn giản là vì ông yếu hơn Razid, chẳng phải việc ở lại là ngu ngốc hơn việc di dời dân cư sao. Ông lão muốn cháu đến đây là để được an toàn, ở Naoorlogs là trận địa của Osward, nếu hắn muốn bắt cháu thì chỉ có chết.

- Ông không mạnh như ông Razid sao? Ông ấy nói rằng ông là thầy cơ mà?

Miracle lắc đầu, ông nói:

- Ông không biết lão già đấy nghĩ gì mà lại thúc ép ông phải dạy phép thuật cho cháu. Bọn ta chỉ là bạn thân mà thôi.

Lão nhíu mày, tiếp tục nói:

- Thực ra thì ông không muốn nhúng tay vào những chuyện liên quan đến phép thuật nữa. Làm một thương nhân già sống qua ngày với đống hợp đồng đó đã quá đủ với ông rồi.

Gác tay lên trán, Miracle nói với giọng trầm hơn:

- Các chuyện hàng gần đây không được thuận lợi, chắc cháu cũng đã nghe từ nhiều người trên đường. Nên bây giờ chuyện phép thuật để sau đi, ngày mai ông có việc cần phải đến pháo đài Seirpen.

Korant sững người, nó nói:

- Nhưng…

Ông Miracle lắc đầu:

- Trễ rồi, chúng ta dừng ở đây thôi. Ông sẽ bảo Pelif đưa cháu về phòng.

Korant vẫn còn nhiều chuyện muốn hỏi về hội Ám Hoàng và tình hình ở đây. Dù vậy, Korant nghĩ rằng Miracle không được thân thiện nhưng vẫn có nét bí ẩn như ông Razid.

Pelif đưa nó đến một căn phòng nằm ở giữa hành lang. Ông vừa mở cánh cửa màu nâu sẫm, một hương thơm dịu của chanh và xả phảng phất trong không khí.

Căn phòng này sang trọng hơn tất cả những nơi mà nó từng ngủ. Chăn ấm, nệm êm cùng nến thơm đang cháy được đặt ở góc phòng. Rèm che kín hai bên cửa sổ tạo nên một không gian yên tĩnh và thư giãn. Chợt nhớ một điều, Korant hỏi Pelif:

- Phiền ông đánh thức cháu trước năm giờ.

Pelif vẫn giữ bộ mặt nghiêm trang nhưng giọng nói lại dễ chịu hơn lúc đầu:

- Tôi nhớ rồi. Nếu như bình thường thì có thể tôi sẽ không đồng ý, do là ngày mai ông chủ có việc gấp vào sáng sớm nên tôi rất sẵn lòng. Cậu có việc gì gấp sao?

Korant lắc đầu:

- Cháu muốn đi dạo biển một chút.

Pelif trầm trồ:

- Cháu có một sở thích thú vị đấy chứ!

- Ông Miracle có việc gì vậy ạ?

- Tôi không chắc lắm… nhưng

Ghé sát tai nó, lão thì thầm:

- Hình như là chuyện làm ăn.

Korant gật đầu cám ơn. Sau khi Pelif vừa rời khỏi phòng, nó hớn hở thay quần áo rồi nhảy phóc lên giường, cuộn mình vào tấm chăn ấm.

Sau cơn gió mạnh đập vào cửa sổ, Korant chìm vào giấc ngủ say.
 
  • Like
Reactions: Phong Cầm

Đang có mặt