Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Đề bài
Thơ ca
Có công việc làm, hẳn có lúc ngừng tay,
Có cuộc hành trình, phải có mươi phút nghỉ.
Thơ vừa là nghỉ ngơi, vừa là việc đầy lao lực,
Thơ vừa là chỗ dừng chân, vừa là cuộc hành trình.
Thơ như bài hát ru, ngây ngất đầu giường thơ bé,
Như mơ ước mùa xuân, như khát vọng chiến công
Tôi yêu thơ và thơ liền hiển hiện,
Thơ đã sinh ra, tình yêu cũng đến cùng.
Khi tôi nhỏ thơ gióng như bà mẹ,
Tôi lớn lên, thơ lại giống người yêu,
Chăm sóc tuổi già, thơ sẽ là con gái,
Lúc từ giã cõi đời, kỉ niệm hóa thơ lưu.
Có lúc thơ như trái núi cao không thể tới,
Có lúc thành cánh chim sà đậu xuống lòng tay.
Thơ như đôi cánh nâng tôi bay
Thơ là vũ khí trong trận đánh
Là tất cả, thơ ơi, chỉ trừ không chịu là yên tĩnh!
Tôi nguyện suốt đời trung thực sống cho thơ…
Là công việc tận cùng? Là rảnh rỗi bắt đầu?
Là cuộc hành trình ư? Hay chỉ là chỗ nghỉ?
Tôi chỉ biết về tôi, thơ vẫn là hai vế:
Rảnh rỗi và việc làm; chỗ nghỉ với hành trình

(Raxun Gamzatôp, Đaghextan của tôi, quyển I, NXB Cầu vồng,
Matxcơva, 1984, trang 149. Bản dịch của Phan Hồng Giang và bằng Việt)

Bài làm

Con người, tạo vật toàn mĩ của tự nhiên, lại luôn luôn không bằng lòng với chính mình, luôn luôn sống trong mâu thuẫn. Một trong những mâu thuẫn lớn lao nhất và cũng là khát vọng cao cả nhất của con người là: Cuộc sống của đời người là hữu hạn vô cùng của cuộc sống? Thơ ca-một trong những “niềm vui cao cả nhất mà loài người tạo ra cho mình” (C. Mac) – đã sinh để giải quyết mọt phần mâu thuẫn đó. Đã có biết bao quan niệm về “thể loại nữ hoàng” này. Có người cho đó là “thần hứng” (Platôn), là “ngọn lửa thần” (Đecgiavin), thậm chí còn là “những cơn điên loạn thần thánh”,…Còn đối với chúng ta, thơ gần gũi xiết bao, là cái cao cả mà không xa lạ, đẹp bình dị mà không bình thường, quen thuộc mà vẫn tha thiết,…Đúng như Raxun Gamzatôp từng quan niệm:

Có công việc làm, hẳn có lúc ngừng tay,
…Rảnh rỗi và việc làm; chỗ nghỉ với hành trình…

(Đaghextan của tôi)

Nhà thơ, đó là danh hiệu cao quý mà không phải ai cũng có được, dù cho “bản chất cuả con người là nghệ sĩ” (M. Gorki), dù cho mỗi người trong chúng ta đều có một nhà thơ trong tâm hồn mình. Làm thơ, hai tiếng ấy đơn giản biết bao nhiêu thì cũng khó khăn gần ấy. Ai trong cuộc đời chẳng đã một lần làm thơ. Song làm thơ để làm gì? Giải trí ư? Hay là một công việc thần bí thiêng liêng? Cả hai đều không phải, không phù hợp với đặc trưng cơ bản của thơ ca. Chế Lan Viên xưa từng cho rằng: “Thi sĩ không phải là người, nó là người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Yêu, là Ma, là Qủy,…”. Trong lúc đó Phan Kế Bính chủ trương: “Văn chương (nghĩa là cả thơ) chỉ là một thứ nghề chơi…”. Tất cả đều nhầm, thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn, do đó không giản đơn mà cũng không thần bí, linh thiêng. Raxun Gamzatôp cho rằng:

Có công việc làm, hẳn có lúc ngừng tay,
Có cuộc hành trình, phải có mươi phút nghỉ.
Thơ vừa là nghỉ ngơi, vừa là việc đầy lao lực,
Thơ vừa là chỗ dừng chân, vừa là cuộc hành trình.

…Là công việc tận cùng? Là rảnh rỗi bắt đầu?
Là cuộc hành trình ư? Hay chỉ là chỗ nghỉ?
Tôi chỉ biết với tôi, thơ vẫn là hai vế:
Rảnh rỗi và việc làm; chỗ nghỉ với hành trình

Nằm trong phương thức biểu hiện trữ tình, thơ ca được xác lập nhờ mối rung cảm thầm kín giữa con người với cuộc sống. Sống trong dòng chảy ngọt ngào của thơ ca, con người tắm mình trong tình cảm của nhà thơ và của chính mình. Thơ ca thấm vào lòng người đọc bởi những cảm xúc trực tiếp và nhiều mối liên tưởng kín đáo, bằng ý tứ sâu xa và sức quyến rũ của thanh điệu, tiết tấu,…Tất cả cùng một lúc ùa vào, tràn ngập trong lòng người đọc, xoá sạch đi hay khắc sâu thêm những tình cảm con người: những tình cảm nhỏ nhen, ích kỉ sẽ bị loại bỏ, những tình cảm cao quý, đẹp đẽ sẽ được tôn lên cao. Tâm hồn con người sống với thơ sẽ được “thanh lọc” (Arixtôt),trở nên trong sáng hơn, đẹp đẽ lên. Sống với thơ, con người sẽ tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn, sẽ được nghỉ ngơi. Nhưng cũng trong lúc đó, tâm hồn con người sẽ tiếp tục cuộc hành trình trên đường đời, để lớn lên, khôn hơn,…Những lúc con người có mươi phút nghỉ ngơi như vậy sẽ không phải là trống rỗng; ngược lại, sự im lặng của nó có một ý nghĩa rất sâu xa trong cuộc đời của một con người, là khoảnh khắc con người sống với chính bản thân mình, sống với cuộc sống nội tâm. Nhưng cũng chính vì “thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiếp) nhưng nó không dễ khơi nguồn, nắm bắt. cảm xúc của chúng ta trào dâng mãnh liệt, cuộc sống cứ cuộn xoáy lên, từng mảng tràn đầy trong tâm hồn, song diễn tả cảm xúc đó lên trang thơ thì không phải là điều dễ dàng.

Maiacôpxki đã phải kêu lên:

Nhà thơ trả chữ
Với giá cắt cổ
Như khai thác
Chất hiếm “rađiom”
Lấy một gam
Phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ
Phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.

Làm thơ là một việc đầy lao lực song cũng là một niềm hạnh phúc vô biên. Bởi vậy, thơ đối với Raxun Gamzatôp và cũng là đối với chúng ta là “hai mặt” của một vấn đề:

Rảnh rỗi và việc làm; chỗ nghỉ với hành trình

Phải sống hết mình cho thơ, phải có một sự nhìn nhận đúng đắn mới có thể có được quan điểm như vậy.

Cuộc sống cho thơ hay thơ cho cuộc sống? Thơ thiếu cuộc sống sẽ lụi tàn, cuộc sống thiếu thơ sẽ mất đi nhiều ý nghĩa.

Maiacôpxki đã nói: “Có những điều chỉ nói được bằng thơ”. Thơ nói vậy ai cũng hiểu, song thơ là gì thì đã có hàng ngàn cách định nghĩa. Thơ ở bên cạnh con người song định hình về nó thì thật là khó. Phải chăng Raxun Gamzatôp đã có lí khi coi “thơ là tất cả”:

Thơ như bài hát ru, ngây ngất đầu giường thơ bé,
Như mơ ước mùa xuân, như khát vọng chiến công
Tôi yêu thơ và thơ liền hiển hiện,
Thơ đã sinh ra, tình yêu cũng đến cùng.

Khi tôi nhỏ, thơ giống như bà mẹ,
Tôi lớn lên, thơ dại giống người yêu,
Chăm sóc tuổi già, thơ sẽ làm con gái,
Lúc từ giã cõi đời, kỉ niệm hoá thơ lưu.

Thơ – tiếng gọi tha thiết ấy gắn liền với những gì thân thiết, cao cả nhất. tuổi thơ của chúng ta lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ, của bà. Tiếng hát ru làm ngây ngất đầu giường thơ bé là những câu thơ đi từ trái tim tha thiết yêu thương của mẹ, tìm đến lòng chúng ta với nguyên vẹn trong sáng, tuyệt đẹp của tình mẹ dịu dàng. Phải chăng cũng vì thế mà Tố Hữu khi nhớ về quê mẹ cũng nhớ rất lâu giọng hát ru:

Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường!
(Quê mẹ)

Thơ đến với chúng ta bằng sự đồng điệu của những tấm lòng, bằng mối giao cảm của những tiếng nói “tri âm tri kỉ”, bởi vì “thơ là chuyện đồng điệu”, “thơ là tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình”. Âm điệu những câu thơ trải dài theo không gian, tạo nên bề sâu của thời gian. Chúng ta tìm thấy trong thơ những gì cần thiết nhất cho tuổi trẻ: cuộc sống, tình yêu, mơ ước. Thơ gắn liền với cái thực, song còn gắn chặt với cái đẹp. Trong thơ, không thể chấp nhận những tình cảm nhỏ bé, bởi vì “thơ là cái nhuỵ của cuộc sống”, và “thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy” (Tố Hữu). Cả cuộc đời, mỗi lúc thơ ca mang đến cho ta một dáng vẻ riêng biệt. Đó là dáng vẻ của những người thân nhất, những người mà chúng ta có thể gửi gắm tâm sự. Khi còn nhỏ đó là mẹ, lớn lên – người yêu, lúc về già – con gái,…Thơ thân thiết biết bao, cao đẹp biết bao đối với lòng người. Trong thơ chúng ta có thể tìm thấy những tiếng nói mặn mà, đằm thắm, tha thiết, yêu thương, có thể cảm nhận được những tiếng thét hừng hực lửa căm thù. Bởi vậy, thơ là cuộc sống được tinh lọc, là “những viên kim cương sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời…”(Sóng Hồng). Tiếng nói của thơ có lúc như những lời tâm tình, làm sống dậy trong lòng ta những kỉ niệm vui buồn của quá khứ xa xôi. Thơ nói với ta có lúc bằng giọng nói ngọt ngào của người con gái đối với cha già; có lúc lại bằng giọng nói thủ thỉ, tin cậy của người yêu. Tất cả thấm sâu vào lòng ta, thức dậy những tình cảm cao quý. Và lúc từ giã cõi đời, kỉ niệm hóa thơ lưu-con người đã chiến thắng được thời gian, đã để lại cho cuộc sống mật mảnh tâm hồn mình.

Tất cả rồi sẽ dần trôi, nhưng tình cảm của con người đối với thơ là vĩnh viễn. Con người sống được là nhờ tình người (dĩ nhiên không phải là cái “nhân tính” chung chung). Bởi vậy, thơ chỉ có thể đến với ta bằng tình người:

Tôi yêu thơ và thơ liền hiển hiện,
Thơ đã sinh ra, tình yêu cũng đến cùng.
…Có lúc thơ như trái núi cao không thể tới,
Có lúc thành cánh chim sà đậu xuống lòng tay.

Tôi yêu thơ, tiếng nói đó nghe mới đơn giản làm sao, yêu thơ có nghĩa là yêu cuộc sống, bởi vì thơ cũng chính là cuộc sống. Chỉ có yêu cuộc sống, tha thiết với nó, thơ mới bật ra những lời chân thành…Và khi thơ đã sinh ra là lúc con người ấy đã nặng tình với cuộc sống, đã yêu đất nước, con người,…Cũng chính vì “thơ khởi phát trong lòng người ta” mà:

Có lúc thơ như trái núi cao không thể tới,
Có lúc thành cánh chim sà đậu xuống lòng tay.

Chỉ khi có tình cảm chân thực mới có thơ, nếu như gò ép thì chỉ “đánh lừa được một người, một thời là may mắn lắm” (Diệp Tiếp). Nhưng điều quan trọng nhất của thơ ca là:

Thơ như đôi cánh nâng tôi bay
Thơ là vũ khí trong trận đánh.

Bằng những cảm xúc mạnh mẽ của riêng mình, thơ làm cho mọi người khát khao vươn tới cái đẹp, vươn tới cái đẹp, vươn tới cái cao cả. Trong cuộc sống, thơ làm cho ta tin hơn vào cuộc đời, bởi vì “dù người ta có nói với bạn điều gì đi nữa, bạn cũng hãy tin rằng cuộc sống là kì diệu và đẹp đẽ” (Pauxtôpxki). Thơ ca mang lại cho ta niềm tin ấy. Yêu tha thiết cái đẹp, con người sẽ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cái đẹp và căm thù những kẻ phá hoại cái đẹp. Thơ ca mang đến cho người đọc ngọn lửa căm thù và tình cảm yêu thương, tình nhân đạo,…Tất cả những cái đó làm cho thơ là vũ khí trong trận đánh, vũ khí của lòng người, mà đã có lúc “một câu thơ đánh giá một sư đoàn”.

Quan niệm của Raxun Gamztôp được khái quát, chốt lại ở những câu thơ:

Là tất cả, thơ ơi, chỉ trừ không chịu là yên tĩnh!
Tôi nguyện suốt đời trung thực sống cho thơ…

“Cái đẹp là cuộc sống” (Secnưsepxki), sự sống luôn luôn sôi động, luôn luôn biến chuyển. Thơ –đó là cái đẹp, là cuộc sống, không thể không sôi động…Thơ là tiếng nói thúc giục chúng ta hành động, và vì vậy, thơ không chịu yên tĩnh, nó phải sống động, phải bốc men rượu nồng thắm của cuộc đời.

Trong cuộc sống, không phải cái gì đưa ra cũng liền được chấp nhận. Quan niệm về thơ của chúng ta đã bao lần thay đổi. Thời phong kiến, họ cho thơ ca là “con thuyền chở gió trăng”:

Gió trăng chất một thuyền đầy
Của kho vô tận biết ngày nào vơi.

Sau đó, biết bao nhiêu nhà thơ khác đã suy tôn thơ lên tới địa hạt thần thánh. Thơ ca, đối với họ, quả thật không phải là chốn nghỉ ngơi. Họ thừa nhận vấn đề tình cảm trong thơ, nhưng tình cảm trong thơ phải như thế nào? “Giọng ca buồn là thích hợp nhất với thơ ca” (EtgaPô). Thơ của họ chứa chất sầu tủi, oán trách, hờn giận:

Anh sẽ viết những dòng đầy nước mắt
Anh sẽ than sẽ khóc mối tình sầu.
(Tế Hanh)

Nỗi buồn trong thơ của họ thường xuất phát từ những xúc cảm ngao ngán, mơ hồ:

Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
(Xuân Diệu)

Chúng ta không phản đối giọng buồn của thơ,nhưng đó là nỗi buồn nâng bước chúng ta lên chứ không thể là:

Tiếng gà gáy nghe buồn như máu ứa
Chết không gian khô héo cả hồn cao.
(Huy Cận)

Những vần thơ như thế không thể làm người đọc sống trong giọng điệu ngọt ngào của tiếng hát ru, không thể giống với những khát vọng chiến công…Nó không thể là đôi cánh nâng tôi bay. Và vì thế, đó không phải là những vần thơ chân chính. Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, mà nhỏ nhen, độc hại. Gần mười thế kỉ, thơ ca Việt Nam luôn luôn hoà trong mình hai âm hưởng chủ đạo là tiếng hát hùng tráng và tiếng nói trữ tình. Những vần thơ đó hằng ngày nuôi dưỡng chúng ta bằng tiếng nói của riêng mình. Một vùng cỏ hoang nơi mộ địa đi vào tâm hồn chúng ta nhờ hai câu thơ rợn ngợp của Nguyễn Du:

Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một và bông lau...

Chúng ta như đang sống cùng với tâm hông nhà thơ…Bãi cỏ xanh non khi trước nay đã héo tàn, vài ngọn lau xám hắt hiu gió lạnh…Ôi đời người…Nguyễn Du đã nghĩ thế chăng? Cũng là nỗi buồn kín đáo nhưng nó làm chúng ta hiểu tâm hồn một con người yêu tha thiết sự sống, đất nước, quê hương; và nhìn lại tâm hồn mình, chúng ta như vượt khỏi những nhỏ nhen thường ngày; lớn lên vì cuộc đời bằng con mắt khác. Thơ ca chân chính phải như vậy, cũng một nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi, song nó có thể khác nhau rất xa về tình cảm. Ca dao xưa cũng:

Cầm lược thì nhớ đến gương
Cầm khăn nhớ túi, nằm giường nhớ nhau.

Anh bộ đội nay cũng “nhớ”:

Cái vết thương xoàng mà đi viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
(Phạm Tiến Duật)

Nỗi nhớ công việc, nhớ nhiệm vụ cồn cào của người lái xe đã làm bao người xúc động, đã khiến bao người có trách nhiệm hơn với cuộc sống.

Là tất cả, thơ ơi, chỉ trừ không chịu là yên tĩnh, Raxun Gamzatôp hoàn toàn có lí khi nói như vậy. Đối diện với thơ ca, ta đối diện với một đại dương mênh mông cảm xúc...Biển sống động bồi hồi, có lúc tưởng phẳng lặng mà cuộn trào bao đợt sóng ngầm, có lúc trào dâng sôi nổi. Biển thơ nâng con – thuyền-tâm – hồn lên bằng từng cánh sóng, đưa thuyền tới một bến bờ rực rỡ tưng bừng ánh sáng. Thơ cho ta vị ngọt của đời, giúp cho ta thấy rõ rằng: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra” (H.Anđecxen). Thơ-đó là tất cả.

Thơ sinh ra ta từ tâm hồn con người nhưng lại luôn làm con người phải ngạc nhiên vì nó. Thơ đẹp quá, song cũng giản dị, gần gũi với chúng ta. Nhà thơ, thơ và cuộc sống gắn bó hữu cơ với nhau, không thể có cái này mà lại thiếu cái kia. Phải trả cho thơ vào cuộc sống sau khi đã chắt lọc thơ từ cuộc sống, phải nâng thơ lên thành sự sống để cho thơ thật là thơ. Phôntan đã nói:

Bạn ơi hãy học suy nghĩ bằng trái tim
Và hãy học cảm xúc bằng lí trí.

Thơ là thế, không chỉ là “sự im lặng giữa các từ”, là tiếng lòng, mà còn là sự tỉnh táo trong cảm xúc, giàu chất trữ tình trong suy tưởng, để rồi trở thành người bạn trung thành của chúng ta trên đường đời, giúp chúng ta thêm lớn về tâm hồn, có tình cảm trong sáng và lành mạnh.

----------------------------
(Bài văn đạt giải nhất kỳ thi Quốc gia năm 1987 - Bảng A của Nguyễn Thanh Sơn, Trường THPT Chu Văn An, Hà Nội )
Thêm
408
3
0
Sáng ngày 24/2/2023, kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia THPT năm 2023 đã diễn ra trên toàn quốc. Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia năm nay có 4.589 thí sinh dự thi đến từ 69 đơn vị. Kỳ thi diễn ra trong 2 ngày 24 và 25/2. Riêng môn Ngữ văn, với thời gian 180 phút, các thí sinh đã hoàn thành câu Nghị luận xã hội và câu Nghị luận văn học. Cùng Triều Anh xem qua đề thi học sinh giỏi Ngữ văn năm nay nhé.​

644b3e0861f6bba8e2e7.jpg

Vanhoctre.com

Đề thi học sinh giỏi Ngữ văn cấp quốc gia năm nay có gì?

1. Cấu trúc đề thi quen thuộc

Giống như mọi năm, đề thi học sinh giỏi cấp quốc gia năm 2023 có cấu trúc hai phần:
- Câu 1. Nghị luận xã hội (8.0 điểm)
- Câu 2. Nghị luận văn học (12 điểm)

2. Đề văn hay, chuẩn xác và có sự phân hoá cao

- Câu 1. Nghị luận xã hội (8.0 điểm)​

Người xưa có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương". Quan điểm trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về việc xây dựng hình ảnh bản thân trong cuộc sống hiện nay?

Thí sinh trình bày suy nghĩ của bản thân về việc xây dựng hình ảnh bản thân trong cuộc sống hiện nay dựa trên quan điểm “Hữu xạ tự nhiên hương” của người xưa. Đây là vấn đề nghị luận có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống và rất gần gũi với lứa tuổi học sinh, thanh niên. Từ yêu cầu của đề bài, giúp cho thí sinh/ thanh niên ngày nay nhận thức đúng đắn, biết đánh giá đúng/sai về cách xây dựng hình ảnh của con người trong xã hội hiện nay, từ đó quyết định cá nhân muốn trở thành người như thế nào trong tương lai.

Có thể nói, dù vấn đề nghị luận gần gũi, thiết thực, quen thuộc nhưng không thể nói là không có sự phân hoá cao. Bởi muốn giải quyết tốt đề văn, đòi hỏi thí sinh dự thi phải có tư duy phản biện đa chiều, cách lập luận chặt chẽ, đặc biệt phải chứng tỏ được bản thân có cách nhìn thấu đáo, sâu sắc về vấn đề nghị luận.

- Câu 2. Nghị luận văn học (12 điểm)

Có ý kiến cho rằng: "Viết văn, cũng chừng ấy kí tự, chừng ấy con chữ, mỗi nhà văn sáng tạo ra một thế giới của riêng mình. Thế giới của riêng mình nhưng lại không chỉ cho riêng mình".
Bằng hiểu biết và trải nghiệm văn học, anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.

Câu nghị luận văn học là một vấn đề lí luận văn học khá quen thuộc, vừa sức với học sinh giỏi văn dự thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Để làm tốt đề bài, thí sinh cần có vốn kiến thức tổng quan về lí luận văn học để trình bày suy nghĩ riêng về tài năng nhà văn (sự sáng tạo, dấu ấn cá nhân) - "Viết văn, cũng chừng ấy kí tự, chừng ấy con chữ, mỗi nhà văn sáng tạo ra một thế giới của riêng mình. Thế giới của riêng mình nhưng lại không chỉ cho riêng mình".

Dù cấu trúc đề không mới, vấn đề nghị luận chưa mang tính đột phá nhưng vẫn có sự phân hoá. Theo tôi, bài viết được đánh giá cao là bài làm có cách lập luận chặt chẽ, dẫn chứng tiêu biểu và thuyết phục, thể hiện chiều sâu nhận thức và thể hiện rõ quan điểm, chính kiến của bản thân chứ không chỉ dừng lại ở việc khẳng định ý kiến trong đề là đúng và nhất nhất bàn theo.​

Cuối cùng, tôi muốn nói với bạn đọc và các thí sinh một điều, dù đề thi có vừa sức, thiết thực, dễ nghị luận nhưng để được công nhận là học giỏi văn cấp quốc gia trong năm 2023 này thì những gì các thí sinh đã thể hiện trong bài thi của mình đã vượt trội so với nhiều thí sinh khác.
.....................................
Triều Anh
Thêm
Đề thi học sinh giỏi Ngữ văn cấp quốc gia 2023 - vừa sức, thiết thực.
1K
2
0
Đề thi HSG Ngữ Văn tỉnh Hòa Bình bảng B năm học 2022 - 2023 diễn ra vào ngày 15/12/2022 vừa qua. Mình sẽ đăng gợi ý làm bài cho đề văn này, nó chỉ có tính chất tham khảo cá nhân, không phải hướng dẫn của BGD tỉnh Hòa Bình.

đề thi HSG Hòa Bình.jpg

Đề thi HSG Ngữ Văn tỉnh Hòa Bình bảng B năm học 2022 - 2023​

Hướng dẫn làm bài

Câu 1.(8đ)​

Chuyện kể rằng, có một vòng tròn rất hoàn mỹ. Nó rất tự hào về thân hình tròn trĩnh đến từng milimet của mình. Thế nhưng một buổi sáng thức dậy, nó thấy mình bị mất đi một góc lớn hình tam giác. Buồn bực, vòng tròn ta đi tìm mảnh vỡ đó. Vì không còn hoàn hảo nên nó lăn rất chậm. Nó bắt đầu ngợi khen những bông hoa dại đang toả sắc bên đường, nó vui đùa cùng ánh nắng mặt trời, tâm tình cùng sâu bọ… Một ngày kia nó tìm được một mảnh hoàn toàn vừa khít và ghép vào. Nó lăn đi và nhận ra mình đang lăn quá nhanh. Đến nỗi, không kịp nhận ra những bông hoa đang cố mỉm cười với nó. Vòng tròn thấy rằng, cuộc sống khác hẳn đi khi nó lăn quá nhanh. Nó dừng lại, đặt mảnh vỡ bên đường rồi chầm chậm lăn đi.

Hãy bình luận về ý nghĩa triết lí của câu chuyện trên.

Các ý cần làm rõ:​

- Khái quát được ý nghĩa triết lí cuả câu chuyện về chiếc vòng tròn:​

Chiếc vòng tròn là biểu tượng của sự hoàn hảo. Bài học về cái vòng tròn cho chúng ta thấy một điều tưởng như nghịch lí đó là: đôi khi sự khiếm khuyết thiếu hụt chính là biểu hiện chứng tỏ con người là con người với ý nghĩa đúng đắn, nhân bản nhất. Đây chính là triết lí về con người bất toàn. Chính sự bất toàn là động cơ để con người hoà nhập cùng cộng đồng và vươn tới những giá trị tốt đẹp và ngày một hoàn thiện.

- Bàn luận về triết lí trên: đây là một triết lí khá sâu sắc.​

+ Triết lí này đã nhìn nhận con người và đời sống ở góc độ nhân bản, con người bao giờ cũng có phần Con và phần Người, phần ưu điểm và hạn chế, tích cực và tiêu cực. Xét từ góc độ triết học, sự tồn tại của hai mặt đối lập và thống nhất trong cùng một cá thể là một tất yếu.
+ Quá trình sống, học tập, lao động, hoà nhập với cộng đồng của con người là một quá trình học hỏi, đấu tranh, vươn đến sự hoàn thiện. Đó chính là ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa tồn tại của mỗi con người.

- Mở rộng, nâng cao vấn đề, liên hệ thức tiễn:​

+ Trong cuộc sống, mỗi con người cần biết rõ những hạn chế, khiếm khuyết của mình để khắc phục vươn lên, học hỏi mọi người, hoàn thiện bản thân; mặt khác, trong hành trình đó, con người không nên cầu toàn, không nên đòi hỏi bản thân sự hoàn hảo tuyệt đối, vì đó là điều không thể. Nên biết chấp nhận mình để hoà nhập với cộng đồng.
+ Cần có cách nhìn nhận đánh giá con người và ứng xử theo quan điểm nhân bản: đó là biết đề cao những mặt tích cực, độ lượng, chấp nhận và chia sẻ những mặt hạn chế; giúp đỡ nhau cùng hoàn thiện
-> Câu chuyện về cái vòng tròn là một thông điệp triết lí về sự tồn tại của con người. Đặt trong thời kì hội nhập và phát triển của xã hội hiện nay, triết lí nhân sinh của câu chuyện là bài học sống và ứng xử sâu sắc với tất cả mọi người. Đối với các bạn trẻ đang ở độ tuổi phát triển và hoàn thiện nhân cách thì triết lí trên càng có giá trị thực tiễn trong hành trang vào đời.

Câu 2.(12đ) Bàn về phong cách nghệ thuật của nhà văn, Antoine Compagnon cho rằng:​

Phong cách vừa hướng về một cái tất yếu đồng thời hướng về một sự tự do.

Anh/chị hãy bình luận ý kiến trên. Bằng hai tác phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà, hãy làm rõ cái tất yếu và cái tự do trong phong cách nghệ thuật của nhà văn.


Giải thích:​

- Phong cách: là những nét đặc sắc có tính hệ thống, tương đối ổn định trong sáng tác của nhà văn, thể hiện tài năng của người nghệ sĩ trong việc phát hiện và thể hiện cuộc sống, đem đến cho người đọc một cái nhìn riêng về thế giới và con người.
Cái tất yếu: những yếu tố cốt lõi, cần có mang tính thống nhất và ổn định trong phong cách nghệ thuật.
Sự tự do: tính chất linh hoạt, đa dạng, không ngừng đổi mới.
Đồng thời: sự tồn tại song song, có nghĩa là sự thống nhất trong phong cách không cản trở, cũng không mâu thuẫn với sự đa dạng, phong phú trong phong cách nghệ thuật một nhà văn.
=>Ý kiến khẳng định đặc trưng phong cách nghệ thuật của nhà văn: phong cách đòi hỏi sự thống nhất trong đa dạng, thống nhất mà vẫn cần phải phát triển, sáng tạo.

Bàn luận​

Phong cách phải hướng về một cái tất yếu

– Văn học nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có phong cách cá nhân, nghĩa là có nét gì đó rất riêng, đặc sắc, mới lạ thể hiện trong sáng tác của mình. Nói đến phong cách là nói đến nét riêng, độc đáo, đặc sắc của các yếu tố thuộc về nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm, ít thấy ở các cây bút khác.

– Phong cách thể hiện ở cách nhìn, trong hệ thống hình tượng, những phương thức thể hiện đặc thù, in đậm dấu ấn sáng tạo thể hiện một cách thường xuyên, có tính chất bền vững, nhất quán, có như vậy mới tạo ra một “chân dung tinh thần” riêng cho nhà văn.

– Không có những “cái tất yếu” đồng nghĩa với sự mờ nhạt, khi đó nhà văn không thể tạo cho mình một khuôn mặt, một chỗ đứng trong văn chương

Phong cách hướng về sự tự do

– Sự thống nhất, nhất quán trong phong cách không phải là sự lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, đơn điệu, nghèo nàn mà là nhất quán trong sự phát triển. Điều đó thôi thúc nhà văn mang đến cho văn chương những điều mới mẻ, để không tự mình lại chán mình, tự cằn cỗi.

– Cuộc sống luôn vận động và phát triển vì thế đòi hỏi hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ buộc phải tìm tòi, đổi mới, người nghệ sĩ phải không ngừng khám phá, thể hiện cuộc sống đầy phong phú và phức tạp. Cũng vì thế phong cách nghệ thuật không được đơn điệu, bất biến mà cần được bổ sung, làm mới. Nhà văn có phong cách không được lặp lại người và cũng không được lặp lại chính mình.

– Khi hoàn cảnh lịch sử xã hội thay đổi, thế giới quan thay đổi, phong cách của nhà văn một mặt giữ được sự bền vững của cái cốt lõi, tất yếu, mặt khác được bổ sung nét mới, thể hiện sự nhạy bén, nắm bắt kịp tinh thần thời đại mới của nhà văn.

– Sự tự do trong phong cách là bằng chứng về sự trưởng thành, sự vận động sáng tạo của nhà văn.

Mở rộng​

– Phong cách nghệ thuật là biểu hiện của tài năng, là cơ sở tạo nên tầm vóc và diện mạo của người nghệ sĩ. Đó là kết quả của một quá trình nỗ lực không ngừng trong lao động nghệ thuật để vừa là chính mình vừa đổi mới mình. Một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo mới thực sự là một nhà văn chân chính.

– Bài học với người sáng tạo và tiếp nhận:

+ Mỗi nhà văn cần có trách nhiệm tự vận động để hoàn thiện phong cách nghệ thuật, góp mặt trong lịch sử văn học, bởi xét đến cùng lịch sử văn học của một dân tộc là lịch sử của những phong cách nghệ thuật.
+ Người đọc tìm hiểu phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ sẽ giúp họ nhận rõ hơn gương mặt riêng và vai trò của mỗi nhà văn trong nền văn học.

– Có thể nhận ra phong cách của nhà văn trong tác phẩm. Có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện. Cụ thể:​

+ Qua cái nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời
+ Qua giọng điệu riêng, gắn liền với cảm hứng sáng tác
+ Nét riêng trong sự lựa chọn, xử lý đề tài, xác định chủ đề, xác định đối tượng miêu tả…
+ Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật
- Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau. Tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một tính chỉnh thể toàn vẹn.

Học sinh chọn 2 tác phẩm đã cho của Nguyễn Tuân để làm sáng tỏ ý kiến:​

+ Phần dẫn chứng văn học đưa ra phải bám sát vấn đề lí luận đã lí giải, phải làm nổi bật nét độc đáo (cái mới) mà tác giả Nguyễn Tuân đem đến cho văn học, nghĩa là cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp phù hợp với cách cảm nhận ấy được tác giả thể hiện như thế nào trong tác phẩm.

+ Quá trình lấy dẫn chứng, học sinh phải nhìn nhận tác phẩm theo nguyên tắc chỉnh thể (vì các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau).

Phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù (click để xem bài)
Đến với đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trong tùy bút "Người lái đò sông Đà":
- Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ: con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình.
- Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò được miêu tả như một dũng tướng tài năng nhưng có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
- Tô đậm những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con người: Con Sông Đà hung bạo, hiểm ác, ông lái đò tài hoa.
- Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau về đối tượng sáng tác đẽ tạo hình tượng: Con Sông Đà hung bạo và những trận thủy chiến của ông lái đò được ghi lại bằng kiến thức của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật.

Ngôn ngữ trong tác phẩm:
- Từ ngữ sắc sảo in đậm dấu ấn riêng. Ngữ nghĩa, ngữ điệu biến đổi, chuyển hóa: sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, nắng ròn tan, nỗi niềm cổ tích tuổi xưa, để thơ vào sông nước... Tác giả còn sáng tạo những từ ngữ mới, cô đọng, giàu ý nghĩa: luôn gân, luôn tim, bờm sóng...
- Diễn tả đa dạng, nhiều góc cạnh. Câu thật ngắn phối hợp với câu thật dài: đoạn tả chặng cuối vượt vòng vây thứ ba, đang viết câu chất chồng ý (... Cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền... xuyên nhanh, vừa xuyên vừa...), đã kết lại bằng một câu rất gọn, biểu thị ý hoàn thành: Thế là hết thác.
- Có khi vừa thể hiện mặt hung dữ, vừa gợi lên khía cạnh thơ mộng của đối tượng miêu tả, vừa ném ra những chi tiết rất tự nhiên, không trau chuốt (con sông đánh đòn hiểm độc nhất với con đò) vừa chắt lọc những chi tiết, những hình ảnh rất trữ tình, rất thơ (ven Sông Đà lặng tờ).


***
Đánh giá đề văn nghị luận văn học 12 điểm: Khi đọc đề và cả hướng dẫn làm bài này, có lẽ nhiều bạn sẽ cho rằng đề văn này sẽ theo hướng phân tích làm rõ phong cách sáng tác trước và sau CM của Nguyễn Tuân để chứng minh câu nói. Nhưng có một điều cần chú ý là, câu nói này có liên quan mật thiết đến triết học của Ph.Ăng ghen. Sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể cho rằng: trong toàn bộ sự vận động của tiến trình lịch sử nhân loại thì loài người tất yếu phải đi lên, phải phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, nghĩa là con người phải tất yếu bước từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Do vậy, câu nói này cũng có thể hiểu một cách sâu sắc rằng ta vừa phải làm rõ cái tất yếu, cái tự do trong 2 tác phẩm đã cho nhưng càng phải nói tới SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Do đó, mình sẽ đưa ra một bài văn tham khảo theo hướng này.

Sự vận động và phát triển trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân:

- Trước cách mạng tháng Tám: phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân được thâu tóm trong 1 chữ "ngông"
- thể hiện lối sống độc đáo ko giống ai, khác đời, hơn đời, khi in vào văn chương thì đó là lối làm văn chương duy nhất không ai có.
+ Đối tượng trong sáng tác của Nguyễn Tuân thời kì này là những con người đặc tuyển, những văn nhân, sĩ phu thất thế chỉ còn 1 thời vang bóng: làm rõ qua Chữ người tử tù.
+ Hành văn cầu kì, giọng điệu trang nghiêm, cổ kính, hệ thống từ ngữ mới lạ do ông sáng tạo ra.
+ Cảm hứng hoài cổ thể hiện qua phẩm chất nhân vật, không khí truyện, nghệ thuật truyền thống (thư pháp), ngôn ngữ đối thoại…
- Sau cách mạng tháng Tám:
+ Vẫn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ, vẫn khai thác nét đẹp tài hoa nghệ sĩ, nhưng Nguyễn Tuân hướng ngòi bút tới những người lao động bình thường
+ những người lao động bình thường trong thời đại mới của đất nước: làm rõ qua hình tượng người lái đò
+ Không khí nghệ thuật: gắn với hơi thở thời đại, nhịp sống của đất nước
+ Thiên nhiên vẫn là thiên nhiên đẹp, vừa dữ dội vừa thơ mộng, chỉ có điều khác với trước Cách mạng, ông khám phá cảnh sắc, con người tự nhiên đời thường của đất nước mình trong hiện tại: cảnh sông Đà
+ Ngôn ngữ vần đậm chất uyên bác, cầu kì nhưng ko còn nặng màu sắc cổ kính như trước.

Bài văn tham khảo​


Xê khốp đã cho rằng: “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả, nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn hiện thực”. Quả thực phong cách nghệ thuật là một phạm vi quan trọng trong văn chương đó chính là chỗ độc đáo về tư tưởng hay nói cách khác phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối của hệ thống hình tượng, biểu hiện nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn. Trong tác phẩm riêng lẻ, trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc, nhận định của Phương Lựu khái niệm phong cách được đề cập là phong cách nghệ thuật của nhà văn. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh như nhà văn ưu tú mới có được phong cách riêng độc đáo. Những nhà văn phong cách chính là đem lại một tiếng nói mới trong văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng bền vững luôn đổi mới. Đặc biệt nó phải có tính chất thẩm mỹ dồi dào, phong cách không chỉ biểu hiện sự trưởng thành của nhà văn khi tài năng nở rộ mà còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.

Phong cách nghệ thuật, có cội nguồn từ cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Cá tính sáng tạo là sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lý, khí chất, cá tính sinh hoạt phong cách từ đó mà trưởng thành nên cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Có thể dễ dàng nhận ra rằng phong cách của nhà văn trong tác phẩm có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện. Bàn về phong cách nghệ thuật của nhà văn, Antoine Compagnon cho rằng: Phong cách vừa hướng về một cái tất yếu đồng thời hướng về một sự tự do.

Cụ thể là qua cách nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời qua giọng điệu riêng gắn liền với cảm hứng sáng tác. Phong cách còn được biểu hiện qua nét riêng trong sự lựa chọn xử lý, đề tài xác định, chủ đề, đối tượng miêu tả, cuối cùng phong cách thể hiện ở tính thống nhất, ấn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật. Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại, tách rời mà hàm chứa lẫn nhau, tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một chỉnh thể vẹn toàn. Và qua 2 tác phẩm “Chữ người tử tù” và “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một bằng chứng cụ thể cho phong cách ấn tượng, sâu sắc khó quên trong người đọc, thể hiện rõ ràng quá trình biến đổi từ cá tất yếu đến cái tự do để thăng hoa ngòi bút của chính ông lên một tầm cao mới.

Trong hai tác phẩm “Chữ người tử tù”“Người lái đò sông Đà”, người đọc vẫn bắt gặp một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác. Tuy nhiên, giữa hai tác phẩm còn rất nhiều khác nhau về phong cách nghệ thuật của tác giả.

Nét ổn định đã làm nên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nhà văn viết hai tác phẩm thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến con người có phẩm chất tài hoa và ở họ đều mang phẩm chất người nghệ sĩ. “Chữ người tử tù” xuất hiện một Huấn Cao dám chống lại triều định phong kiến thối nát với hoài bão tung hoành của một con người có lí tưởng sống cao cả, khát vọng tự do; là tử tù nhưng không bị khuất phục trước sức mạng cường quyền; là nghệ sĩ nhưng không vì vàng ngọc mà ép mình viết chữ; là anh hùng đầy kiêu hãnh, khinh bạc trước cái tầm thường của xã hội nhưng vẫn biết cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục. Cho tới sau cách mạng tháng Tám, “Người lái đò sông Đà” ra đời dựng nên người lái đò không tên tuổi nhưng đầy tài năng, dũng cảm và sở thích mạo hiểm: “Chạy đò trên đoạn sông không có thác nó dễ dại tay, dại chân và bù ngủ”(có bản viết “buồn ngủ”). Mấy ai dám làm nghề nguy hiểm vất vả trên sông nước ấy. Trước một dòng sông hung bạo đến thế, ông lái đò vẫn bình tĩnh tự tin vào tài năng trí tuệ của mình. Bởi lẽ đó mà người lái đò lại hiện lên như một chiến sĩ dũng tướng.

Hai tác phẩm dường như không quan tâm đến những chi tiết thuộc về đời thường nên hình tượng nổi bật hơn về lí tưởng cao cả. Không người đọc nào phải băn khoăn về đời tư Huấn Cao. Nhà văn chỉ tập trung vào phát họa chân dung, thần thái của nhân vật trong những ngày tháng vào kinh chịu án. Bút pháp lãng mạn trong xây dựng nhân vật chủ yếu là những nét vờn vẽ trên nền chung của cảnh tượng xưa nay chưa từng có: “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô những nét chữ trên tấm lụa trắng tinh, căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực.” Tác phẩm thứ hai cũng vậy. Người lái đò là ông bạn của tác giả đang sống giữa cuộc đời này cùng với công cuộc xây dựng đất nước nhưng tác giả cũng bỏ qua những chi tiết về đời thường. Nguyễn Tuân chủ yếu giới thiệu nhân vật với sự thông minh và trí tuệ, tài hoa trong lao động với một vẻ đẹp của một dũng tướng anh hùng trước trận chiến sông Đà. Tác giả tập trung thể hiện hình ảnh của nhân vật trong chuyến đò cuối cùng trước khi giải nghệ vì thế mà nhân vật có dịp biểu diễn tài năng lái đò của mình. Hình tượng nhân vật cũng trở nên lớn lao, phi thường trước cái lớn lao của thiên nhiên hùng vĩ.

Phong cách chung là thế nhưng ở mỗi tác phẩm Nguyễn Tuân còn sáng tạo riêng cho mình những sự khác biệt cả về nội dung tư tưởng lẫn nghệ thuật.
Nội dung tư tưởng trước và sau cách mạng tháng Tám cũng có sự thay đổi. Trước cách mạng tháng Tám “Chữ người tử tù” chiếu lên anh hùng lẫm liệt Huấn Cao khí phách nhưng vẫn là một anh hùng thất trận, tử tù. Tuy nhiên Nguyễn Tuân để ý nhiều hơn chuyện cho chữ của ôn Huấn. Nghệ sĩ Huấn hẳn người của một người khoa bảng cho chữ và xin chữ để thưởng thức, để giữ gìn. Đó là hiện thân văn hóa truyền thống tốt đẹp ông cha ta. Ngợi ca Huấn là ngợi ca truyền thống dân tộc, ít nhiều bày tỏ thái độ không chịu làm lành trước hiện thực nhơ nhớp ngục tù của hiện thực xã hội đương thời. Sau cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân lại tìm đến cái đẹp ở người lao động cùng thời của nhà văn. Chất nghệ sĩ ở đây là con người trong lao động gắn bó với hiện thực cuộc sống. Người lái đò là người anh hùng chiến thắng thiên nhiên rộng lớn và vẻ đẹp phi thường được thể hiện trong hình cảnh người lái đò đã năm được quy luật tất yếu của dòng sông Đà. Nếu Huấn Cao là nghệ sĩ sáng tạo ra thư pháp thì người lái đò là nghệ sĩ biểu diễn, thi tài với tạo hóa; đó là người nghệ sĩ đang khoe tài đầy mạo hiểm trước sân khấu biểu diễn thác nước để rồi qua đó nhà văn ngợi ca vẻ đẹp bất tử của cái đẹp trong lao động.

Về nghệ thuật cũng thết. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn thành công trong việc sáng tạo nhân vật, dựng hình tượng nhân vật, nhất là trong không khí cổ kính trang nghiêm. Bút pháp hiện thực và lãng mạn vẫn toát lên chất trữ tình mặc dù truyện ngắn chưa phải là sở trường của ông. “Người lái đò sông Đà” lại khác. Nó là tùy bút được Nguyễn Tuân xem như độc tấu. Tùy bút của ông mang yếu tố truyện mà tác giả đã thành công khi vẽ nhân vật. Đặc biệt với tùy bút này, nhà văn được thể hiện tài năng của một chuyên viên tiếng Việt, ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh được sử dụng sáng tạo, mới mẻ, hấp dẫn.

Như phần trên đã nói, ngoài sự ổn định thì phong cách của Nguyễn Tuân vẫn có sự mới mẻ trong từng giai đoạn. Có lúc nó hùng tráng, nghiêm trang, có lúc nhẹ nhàng mà thoáng đãng nhưng dù ở khía cạnh nào tác giả vẫn thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật người nghệ sĩ tài hoa. Do đó, độc giả cần khích lệ nhà văn trên con đường sáng tác của mình để tâm hồn kia sẽ là một trong những nhà văn vang bóng một thời.
Thêm
Đề thi HSG Ngữ Văn tỉnh Hòa Bình bảng B có hướng dẫn làm bài
  • Like
Reactions: Vanhoctre
4K
1
0
Xin chào tất cả mọi người, mình là sun - một người xa lạ đang đi tìm màu, admin của insta @sun.fl_d, từng đạt giải nhất cấp tỉnh môn văn năm lớp 9 và là á khoa đầu vào môn văn chuyên. Qua quá trình rèn luyện để đạt được nhiều thành tích hơn thế nữa, mình đã học tập từ rất nhiều tư liệu và bây giờ khi đi qua 12 năm học sinh, mình muốn chia sẻ vốn văn, kinh nghiệm đó đến các bạn. Dưới đây là câu 1 (nghị luận xã hội) của bài văn đạt giải nhất HSGQG năm 2014 với đề thi là ‘Phải chăng, sống là toả sáng?’:

Tôi là ai? Sự sống của tôi có ý nghĩa gì? Ba trăm năm nữa liệu có còn ai còn biết đến sự tồn tại của tôi trên cõi đời này? Tên tuổi tôi, cuộc đời tôi có lẽ nào sẽ chìm khuất vào quên lãng? Có người hỏi tôi rằng: Phải chăng sống là tỏa sáng? Chao ôi! Chắc chắn sống là tỏa sáng.

Chúng ta nên hiểu “sống” ở đây theo nghĩa rộng. “Sống” không chỉ mang nghĩa sinh học, không chỉ là sự tồn tại. Hơn nữa, nói một cách chính xác, chúng ta đang nói đến “sống” là tổng hòa tất cả những hoạt động của con người với tư cách xã hội, là con người xã hội. Sự sống ấy gắn liền với những giá trị người vì chỉ con người mới có kết cấu xã hội. Con người không chỉ tồn tại mà còn “sống”, không chỉ có phần “con” mà còn mang tư cách “Người”. Sự sống của muôn loài chỉ nhằm mục đích duy trì và phát triển nòi giống, sự tiến hóa, sự sống của con người còn là vì chính mình, vì những lí tưởng cao cả. Chúng ta có ý thức về bản thân, về lẽ sống, về giá trị cuộc đời của riêng mình. Nhưng nhất là chính ta hiểu rằng mình là một cá thể độc đáo duy nhất trong vũ trụ. Toàn nhân loại không có một con người thứ hai giống hệt ta. Vậy nếu như sự duy nhất ấy bị hòa tan đi thì ta còn ý nghĩa gì nữa?​

D02DB9AA-C4F0-4673-BF39-6D781F4405A9.png

(Ảnh được thiết kế bởi @sun.fl_d)

Bất kể ai có ý thức sống đều muốn vươn lên những cái đẹp, cái thiện, cao hơn vươn lên trở thành Con Người viết hoa. Mỗi người có một lối sống khác nhau, tùy theo mơ ước, khát vọng của riêng mình. Cá nhân tôi cho rằng, sống đẹp là chưa đủ, con người cần phải sống “tỏa sáng”. Cố nhiên sống đẹp thì mới có thể “tỏa sáng” nhưng “tỏa sáng” còn là sự khẳng định mình, làm cho mình không bị quên lãng trong ký ức của mọi người. Trái ngược với sáng là tối. Cuộc đời như đêm tối thì không ai thấy, do vậy mà không ai nhớ. Con người không chỉ cần “đẹp” mà còn là “đẹp theo một cách riêng”.

Nói “tỏa sáng” là một cách diễn đạt rất giàu hình ảnh. Sự sống của ta có thể “tỏa sáng” được chắc chắn phải có những phẩm chất. Đó là những nét đẹp được cả cộng đồng thừa nhận và khuyến khích. Nói một cách cụ thể, trước khi muốn “tỏa sáng” thì phải “sống cho ra người”. Không thể là một nhân cách lệch lạc, một đạo đức khuyết, một trí tuệ không đầy đủ. Con người trước khi vươn tới cái đẹp, thì cần phải sống - như GS. Hoàng Ngọc Hiến nói - cho “hẳn hoi”. “Hẳn hoi” là một từ rất Việt, khó có thể tìm một từ nào trong ngôn ngữ khác có ý nghĩa thật gần với nó. Nhưng “hẳn hoi” chính là nền tảng cho sống “tỏa sáng”. Bản thân sống hẳn hoi cũng có ánh sáng của nó, đó là ánh sáng của cốt cách vững vàng, của một con người tuy không nổi trội nhưng “đẹp, đẹp hài hòa, đẹp cân xứng”. Có rất nhiều người không hiểu do vô tình hay cố ý mà không sống hẳn hoi được: kẻ thì quá đề cao vật chất, sống không biết đến sự di dưỡng tinh thần, người thì sống ảo tưởng, lấy điểm tựa siêu hình để bào chữa, cho rằng “nghèo” mới giữ đạo đức thanh cao được.

Nhưng “tỏa sáng” không phải chỉ là “hẳn hoi”. Muốn “tỏa sáng” được nhất định phải có một thế mạnh của riêng mình. Sở trường không thể làm nên toàn bộ giá trị của một người nhưng chính là yếu tố khẳng định giá trị của con người. Muốn “tỏa sáng” trước hết phải có tài năng. Tài năng có thể do bẩm sinh nhưng phần nhiều do rèn luyện mà có. Tài năng là khả năng làm những công việc đạt được hiệu quả cao, vượt lên trên mức trung bình, thậm chí vượt lên trên người khác. Mỗi người có một tài năng riêng, do vậy, tài năng chính là yếu tố khẳng định mỗi người. Những chiếc huy chương ở các kì thế vận hội chính là sự khẳng định của tài năng, đó là “tỏa sáng”. Những thành tích, thành tựu cao không thể không có sự đóng góp của tài năng. Có người nói, trong điểm mười tuyệt đối thì tám điểm là của sự cố gắng, nỗ lực, chỉ có hai điểm thuộc về năng khiếu. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng xin bổ sung thêm, hai điểm của “năng khiếu” chính là điểm chín và điểm mười. Nếu không có tài năng thì dù nỗ lực đến đâu cũng chỉ là tối đa điểm tám. Muốn có chín, có mười nhất thiết phải giỏi hơn người bằng cái tài. Trong một bài kiểm tra hay trong cuộc sống, người được điểm mười là người “tỏa sáng”, được nhớ đến!

Tuy thế, sống là tỏa sáng không chỉ là vượt trội, là “vĩ đại” trong khoảnh khắc. Muốn sự sống của mình thực sự tỏa sáng thì phải kiếm được điểm chín, điểm mười cho bài thi tốt nghiệp của cuộc đời. Nghĩa là điểm mười được “chấm” cho cả đời người. Khẳng định được tài năng của mình là tỏa sáng. Nhưng không phải chỉ mình ta mới có tài năng. Mà lịch sử lại thường chỉ ghi danh những người tài giỏi bậc nhất. Do đó, muốn thực sự “tỏa sáng”, cần phải đẩy tài năng của mình lên đỉnh cao nhất, luôn luôn phấn đấu vượt qua những người giỏi nhất. Để không chìm vào quên lãng, không thể không biến mình thành số một hoặc ít nhất là nỗ lực để biến mình thành số một.

Điều đánh dấu sự trưởng thành cũng như khẳng định chính xác nhất một tài năng chính là những thành tựu. Xét cho cùng thì lịch sử cũng chỉ đánh giá một tên tuổi dựa trên thành tựu. Những điều ta làm được sẽ quyết định rằng ta có “tỏa sáng” hay không. Cuộc sống thường khắc nghiệt nhất ở điều ấy. Cho dù ta nói rằng bản thân đã cố gắng hết mình, nhưng nếu kết quả là thất bại, anh vẫn là kẻ thất bại. Nếu chỉ ôm ấp tài năng của mình, ngồi tự hào về nó trong buồn ngủ thì vĩnh viễn không thể “tỏa sáng”. Để có được thành tựu lớn nhất của mình, con người cần phải hành động quyết liệt.

Sự “tỏa sáng” của một người suy cho cùng cũng là để nhân loại không lãng quên mình. Do đó, muốn thực sự “tỏa sáng” được, cần phải có những đóng góp vào cuộc đời chung. Sự sống về vật chất của ta sau sinh, lão, bệnh ắt sẽ đến tử. Cát bụi lại trở về với cát bụi. Con người chỉ có thể bất tử khi cuộc đời, sự nghiệp của mình ghim vào ký ức cộng đồng. Hơn thế nữa, khi con người chỉ đặt mục tiêu sống vì mình, chúng ta sẽ không bao giờ tạo ra được một thành quả rất to lớn. Muốn có thành tựu vĩ đại, phải hướng đến những lý tưởng phục vụ cho cuộc sống chung. Bên cạnh chất “cao cả” của lí tưởng, một mục tiêu lớn mới có khả năng thúc đẩy con người phát huy hết năng lực của mình, đạt được những thành tựu kỳ vĩ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ra đi từ bến Nhà Rồng không có mục đích nào khác ngoài lý tưởng giải phóng cho dân tộc. Tôi cho rằng, Bác đã thành công một nửa khi dám nghĩ, dám làm, dám đặt ra mục đích của một đời như vậy.

Có lẽ sẽ có nhiều người cho rằng, cuộc sống vốn đã đẹp, được sống, được tận hưởng thế giới đã là một điều may mắn và mãn nguyện. Nhưng trong chúng ta, bao nhiêu người còn nhớ về cụ nội của mình? Và bao nhiêu người sẽ được chắt mình nhớ tới? Chỉ trong vài thế hệ, cả một cuộc đời đã chìm vào quên lãng. Cuộc đời tôi không thể như vậy!
Thêm
Bài nghị luận xã hội của giải nhất HSGQG năm 2014
15K
4
4
Chủ đề cuộc thi Viết thư UPU 2021 là: “Hãy viết thư cho một người thân trong gia đình để chia sẻ trải nghiệm về đại dịch COVID-19."

Bức thư của Anh Thư đã đoạt giải nhất Quốc gia, và được chọn đi dự thi Quốc tế và đạt giải Ba. Nội dung bài như sau:


Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương ngày 8/2/2021.

Thiên thần của chị!

Em đang ngủ hồn nhiên, đôi môi chúm lại như đang mút kẹo. Còn chị, chị ngắm nhìn em, một thiên thần được sinh ra giữa mùa Covid với niềm hạnh phúc không gì tả nổi. Chị muốn nói với em thật nhiều về những ngày tháng chị cùng em ở trong khu cách ly này nhưng em quá nhỏ bé chẳng thể ghi nhớ nổi điều gì. Thế nên chị viết những dòng này cho em của chị.

Em thân yêu!

Buổi sáng ấy, khi kênh thời sự đưa tin trên toàn thế giới đã có hơn một trăm triệu người mắc Covid-19 và hơn hai triệu người bị "tử thần Covid" cướp đi sự sống; còn ở đất nước mình dịch đang bùng phát trở lại và có thêm nhiều ca mắc mới thì đó cũng chính là lúc mẹ trở dạ sinh em. Chao ôi! Chị không thể nhớ nổi cảm xúc của mình lúc đó như thế nào nữa. Chỉ biết rằng, rất nhanh chóng, phòng cách ly của mẹ biến thành phòng để sinh em. Còn chị, chị ở phòng bên này ngóng sang bên đó, chờ đợi em trong cuộc hành trình đến với thế giới này. Chị hết đứng lên, ngồi xuống, không yên. Đúng là ai chưa từng chờ đợi trong lo âu, phấp phỏng thì sẽ chẳng bao giờ cảm nhận được thời gian chờ đợi nặng nề, lê thê đến thế nào.

Em bé bỏng của chị!

Khi em cất tiếng khóc chào đời, không gian như bừng sáng. Bế em trên tay là một bác sĩ trong bộ đồ bảo hộ y tế màu xanh, khẩu trang kín mít, chỉ còn hở đôi mắt ánh lên nét rạng ngời. Em cất tiếng khóc, chị nhẹ nhõm như vừa trút ánh nặng ngàn cân, vui sướng đến run người, nghe bên tai tiếng bà cười trong nước mắt, bố đang gọi video bỗng lặng đi... Tất cả vỡ òa cảm xúc...

Em sinh ra trong sự nâng niu, đón chờ của những người thân và nhiều hơn thế nữa. Tiếng khóc chào đời của em đã thắp thêm niềm hy vọng, niềm tin chiến thắng đại dịch cho những chiến sĩ áo trắng nơi đây. Dù cho ngoài kia, cả thế giới đang chao đảo vì cơn bão tử thần Covid-19, thì em ơi, cứ ngủ thật ngon lành bởi trong này bình yên lắm. Em được chở che trong vòng tay ấm êm của những con người thầm lặng. Đó là những bác sĩ không quản ngày đêm hy sinh bản thân mình, hết lòng vì người bệnh. Tấm chắn giọt bắn lúc nào cũng đầy hơi nước vì không có cơ hội được bỏ ra, lưng áo ướt đẫm mồ hôi cho dù là đang giữa những ngày đông tháng giá. Đó là những người tự nguyện ở luôn trong bệnh viện, cả cái Tết đoàn viên cũng chẳng về nhà. Đó là cô y tá sẵn sàng gửi con nhỏ mới lên ba cho ông bà chăm sóc, và từng đêm, khi em quấy khóc, cô lại bế bồng và hát ru em câu hát "À ơi, con cò bay lả bay la..."

Em à! Chị thật may mắn khi được ở đây trong những ngày qua. Thời gian gần một tháng trời đã cho chị hiểu rằng bên trong tấm biển "khu vực cách ly đặc biệt" kia không phải là những điều đáng sợ như người ta vẫn tưởng mà là cả một thế giới của sự ân cần chăm sóc, của những tấm lòng ấm áp yêu thương. Thế giới có những anh hùng thầm lặng, sẵn sàng cho đi mà không đòi hỏi bất cứ thứ gì. Nơi đây đã cho chị biết hạnh phúc không phải chỉ là được ăn ngon, mặc đẹp, được thỏa sức vui chơi mà là được sống trong niềm tin về tình yêu thương giữa con người. Bây giờ, chị thực sự hiểu rằng vì sao một đất nước nhỏ bé trên bản đồ thế giới lại khiến cho các cường quốc năm chân phải nể phục trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19. Đơn giản thôi em ơi, mỗi con người của dải đất này đều truyền đến nhau thông điệp 5K "Khẩu trang - Khử khuẩn - Khoảng cách - Không tụ tập - Khai báo y tế". Tất cả cùng hòa chung "Vũ điệu rửa tay - Ghen Covy". Tất cả cùng đồng lòng "chống dịch như chống giặc", và anh dũng nhất là những nhân viên y tế tuyến đầu.

Nhìn em ngủ hồn nhiên, ngon lành trong lòng mẹ, chị như vừa qua giông bão đến được bến bình yên. Mình sẽ về nhà trong niềm vui xuân mới, những con người thầm lặng nơi đây vẫn tiếp tục cuộc chiến tới cùng. Rồi đây, mỗi ngày em một lớn khôn, chị em mình sẽ như những cây xương rồng mạnh mẽ trước bão giông. Tất cả bắt đầu từ ngày hôm nay, em nhé!

Yêu em thật nhiều!"


*Tại phiên toàn thể bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 27, bức thư của em Đào Anh Thư, lớp 8A2, trường THCS Nguyễn Huy Tưởng (Đông Anh, Hà Nội) đã được trao giải Ba cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU 2021.
Thêm
685
0
0
Nhận xét về sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.” (Theo tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB văn học Hà Nội, 1996, trang 375)

Anh, chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa và một số sáng tác của Thạch Lam, hãy chứng minh ý kiến đó.

(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2000, Bảng A)

Bài làm:

Giữa bộn bề phồn tạp buổi chợ phiên văn chương, giữa náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạn, Thạch Lam được nhật như một khách hàng đặc biệt. Con người của Tự lực văn đoàn ấy đã không đưa ta tới những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trời lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đáng sống, con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian. Nói như Nguyễn Tuân: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.

Cũng là một nhà văn có tâm huyết với đời, Nguyễn Tuân đã đem tấm lòng mình ra để cảm Thạch Lam, để thấy được bên trong dòng chữ rất đỗi yên bình ấy là cả trái tim một con người không khi nào vơi cạn tình yêu cuộc sống và tình yêu với dân nghèo. Lời nhận xét của Nguyễn Tuân đã khái quát được phẩm chất tâm hồn Thạch Lam và những giá trị đích thực của văn chương Thạch Lam.

Giống như cái cây xanh ngoài kia hút màu từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải bắt rễ sâu chắc vào mảnh đất cuộc đời để từ đó toả ra tán lá rộng, dày góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn thế tác phẩm nghệ thuật phải là tiếng nói xuất phát từ những rung động chân thực của nhà văn trước hiện thực, nảy nở lên từ những tình cảm của nhà văn dành cho con người. Nhà văn phải biết sống hết mình. Nếu thiếu đi trái tim đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện thực kia sẽ mãi mãi nằm trong yên lặng. Vâng, không gì khác ngoài tình yêu và tâm huyết của nghệ sĩ đã làm nên giá trị cho tác phẩm.

Giá trị của những truyện ngắn của Thạch Lam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nguyễn Tuân cho rằng: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo”.

Sống trong lòng chế độ thực dân nửa phong kiến, chứng kiến biết bao bất công tàn bạo của một chế độ mục rữa, thối nát, Thach Lam đã dám nhìn thẳng vào sự thực ở đời để thấy được bao kiếp người đang quằn quại đau khổ, đang vật vã trong những bế tắc không lối thoát. Mảnh đất hiện thực nghiệt ngã ấy đã tác động vào tâm hồn nhà văn, khơi gợi lên những cảm xúc, những rung động yêu thương chân thành. Có lẽ Thạch Lam đã đau nỗi đau của con người trong thời đại ông đến thế nào, ông mới có thể bước qua những ngưỡng cửa văn học lãng mạn để đến với văn học hiện thực. Chúng ta không quên quan niệm bất hủ của ông về văn chương: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Chính nhận thức đúng đắn ấy đã giúp cho Thạch Lam có được những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Những “chân cảm” - phải chăng Nguyễn Tuân muốn nhấn mạnh độ chân thực trong cảm xúc, tình cảm của Thạch Lam? Và có lẽ Nguyễn Tuân đã nói lên được dòng tư tưởng, tình cảm dào dạt trong những sáng tác của Thạch Lam, cái đề tài mà mà ông quan tâm hướng tới.

Hiện thực cuộc sống là rộng lớn, là vô cùng. Và mỗi nhà văn với chiếc xẻng nghệ thuật trong tay mình đã đào xới một mảnh đất để lật lên những vỉ hiện thực và tìm cho mình thế giới hình tượng trong đó. Nếu như Vũ Trọng Phụng xuất sắc ở mảng đề tài về cuộc sống thành thị của xã hội “chó đểu”, nếu như Nguyễn Công Hoan tài năng trong việc khắc họa bức tranh thế giới quan lại khả ố, bất lương và Nam Cao rạng rỡ trong những sáng tác về người nông dân và trí thức tiểu tư sản thì Thạch Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống của những người ở tầng lớp dân nghèo với những khám phá tinh vi về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần bên cạnh những nỗi khổ “áo cơm ghì sát đất”.

Chúng ta không khỏi đau xót khi chứng kiến thảm cảnh “Nhà mẹ Lê” - một người mẹ khốn khổ cùng với một người con nheo nhóc, đói khát. Bức tranh hiện thực hiện lên qua mấy trang văn ấy cũng sắc sảo không kém phần bất kỳ một tác phẩm nào viết về cái đói, cái nghèo. “Nhà mẹ Lê” là một nỗi đau của Thạch Lam. Cái chết của người mẹ đáng thương ấy cùng với nỗi bất hạnh của đàn con thơ dại mà "đứa lớn nhất mới mười bảy tuổi, còn đứa bé nhất thì đang bế trên tay" chính là vấn đề đáng quan tâm nhất, chính là cái hiện thực tàn ác mà nhà văn chân chính không thể thờ ơ. Viết về cái gì đi chăng nữa thì số phận con người vẫn mãi là lời gọi tha thiết nhất đối với ngòi bút nhà văn.
Với Thạch Lam cuộc sống nơi phố huyện nghèo, tăm tối đã thu hút ông khám phá. Và ông thấy được ở trong cái lạnh lẽo của cơn gió lạnh đầu mùa kia có cả nỗi khổ của bé Hiên không có áo ấm mùa đông, nỗi khổ của người mẹ ngày ngày đi bắt cua, bắt ốc không kiếm được cho con tấm áo.

Những con người ấy thân thuộc với ông quá, trong lòng ông đã rung lên những sợi dây tình cảm khi viết về cảnh đời của những con người nhỏ bé. Có nhà triết học cho rằng, biết xúc cảm cũng là một năng lực. Tôi thấy điều đó đúng với Thạch Lam. Cái năng lực ấy vốn dĩ không phải của trời ban mà nó được hình thành từ chính tấm lòng tràn đầy tình yêu thương của nhà văn đối với người lao động.

Viết riêng về tầng lớp dân nghèo, Thạch Lam không chỉ quan tâm đến nỗi khổ vật chất mà với ông, cái đáng sợ là sự xói mòn về tâm hồn. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" đã chỉ ra bi kịch ấy. Cái mới của Thạch Lam trong việc thể hiện nỗi khổ con người là ông phát hiện ra nỗi khổ phải sống trong cảnh quẩn quanh,tù túng, bế tắc, phải chìm nghỉm trong cái “ao đời phẳng lặng” (Chữ của Xuân Diệu).

Cuộc sống của Liên và An có khác gì sự giam hãm về tinh thần? Mỗi ngày cứ đi qua trong sự im lặng đáng sợ của bóng tối, trong lặng lẽ của quầy hàng không có khách. một cuộc sống không sôi nổi, không biết động, không mơ ước, cuộc sống ấy không đáng bị thay đổi lắm sao? Ngay cả đến cảnh thiên nhiên cũng nhuốm vẻ u buồn: “Chiều, chiều tối. Một buổi chiều chầm chậm nặng nề của cuộc đời và đáng sợ nhất vẫn là bóng tối, bóng tối trùm lên phố huyện”. Cái hay của Thạch Lam là đã diễn tả bóng tối qua ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu nơi chõng hàng chị Tí hay ánh lửa trong gánh phở bác Siêu. Cái leo lét nhập trời nữa cũng không chống chọi nổi sự bao phủ của màn đêm. Nó chỉ cho ta thấy sự đối lập khủng khiếp giữa ánh sáng và bóng tối. Và cuộc đời của những con người kia, những Liên, những An, những chị Tí bác Siêu, bà cụ Thi cũng có khác gì ngọn đèn leo lét đó, không thể tỏa sáng được giữa bóng đêm mịt mù của cuộc đời.

Truyện giản dị, nhẹ nhàng mà gợi cho ta bao suy tư về số phận con người. Chính những xúc cảm của nhà văn đã đem đến cho người đọc sự xúc động, để lại những băn khoăn, day dứt trong mỗi chúng ta.

Tôi đọc văn Thạch Lam trong một buổi trưa yên tĩnh và tôi thấy chưa hẳn nhà văn của chúng ta đã hoàn toàn thất vọng về cuộc sống.Cũng giống như cái cảm giác ban trưa ngột ngạt mà có làn gió mát thổi qua,tôi cảm nhận được luồng gió vô tình mà Thạch Lam mang lại sau những trang văn tưởng như bế tắc không có lối thoát ấy.Tôi vẫn thấy lờ mờ rằng hình như Thạch Lam cũng đồng cảm với Pauxtopxki trong ý nghĩ: Dù ai đó có nói với bạn điều gì đi chăng nữa,bạn hãy cứ tin rằng cuộc sống kỳ diệu và đẹp đẽ.Thạch Lam đã tin vào điều ấy. Ông tin rằng chính linh hồn con người sẽ cứu sống con người ra khỏi sự tăm tối,chính những ước mơ,hoài bão và cả tình thương của con người sẽ giúp họ vượt qua nghiệt ngã của cuộc sống.Và ông đã xây dựng nên những tính cách như thế.

Ông đã thổi vào trong “Gió lạnh đầu mùa” sự ấm áp của tình người,của lòng thương. Ông đã để nhân vật Sơn đem tấm áo cho bé Hiên, để Hiên bớt đi cái lạnh, đế Hiên cảm thấy cuộc sống chưa hẳn đã đau khổ. Gió vẫn cứ lạnh đấy nhưng dù gió có lạnh đến thế nào thì tình người vẫn cứ vượt lên trên tất cả. Nguyễn Tuân đã rất đúng khi cho rằng: “Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống,trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh”. Phải rồi, nếu không có sự quý trọng cuộc đời của nhà văn thì chắc hẳn những người như bé Hiên sẽ suốt đời không có được một manh áo ấm và triết lý về tình thương sẽ tuột khỏi tác phẩm, rơi vào trong cái lạnh lẽo của thiên nhiên. Đọc “Gió lạnh đầu mùa”, tôi không cảm thấy cái lạnh tràn về mà bỗng thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi hơi nóng của tình yêu thương con người.Vâng, tình cảm thánh thiện trong tâm hồn của một đứa trẻ như Sơn sẽ xua đi mọi lạnh giá khắc nghiệt của thời tiết bởi vì “không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người”. Thạch Lam đã cho tôi thấm thía chân lý ấy và còn gì đẹp hơn một tác phẩm “ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Nam Cao).

Có một ai đó đã nói: “Hy vọng chính là một nghệ thuật sống”. Đọc như những trang viết của Thạch Lam, người ta cũng thấy một niềm hi vọng được nhen nhóm lên từ trong chính những đau khổ, mờ mịt của cuộc đời. Nhà văn đã yêu cuộc sống,trân trọng và nâng niu nó; đặt cả con tim mình lên câu chữ để đem theo cái hơi thở nồng nàn của sự sống đến cho người đọc.

Từ cái quẩn quanh, ngột ngạt của cuộc sống tù túng nơi phố huyện, người đọc vẫn thấy được niềm tin ở tương lai cho dù nó thật mong manh, yếu ớt - mong manh như chính cuộc đời của những con người nơi đây, yếu ớt như ánh sáng những ngọn đèn, ánh lửa trong đêm tối.

Thạch Lam đã không làm mất đi trong ta ngọn lửa của niềm tin hy vọng. Tình yêu mến và trân trọng cuộc sống đã giúp ông xây dựng nhân vật Liên trong “Hai đứa trẻ”, để cho Liên có một ước mơ. Cảnh đợi tàu và mong ước của chị em Liên là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì trong nhận thức của con người. Có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu
Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”

Nhưng với Liên đó là cả một niềm khát khao. Con tàu trong suy tưởng của Liên không phải chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hy vọng của phố huyện này. Con tàu chở mơ ước của chị em Liên về một Hà Nội đầy ánh sáng, Hà Nội của niềm vui rực rỡ. Nên cái ước mơ được nhìn thấy chuyến tàu ở chúng ta thật bình thường thì đối với Liên, nó thật mãnh liệt và lớn lao biết bao. Nhưng Thạch Lam muốn cho người đọc hiểu rằng: Liên mơ ước chuyến tàu cũng chính là đang mơ ước về một sức sống sôi nổi hơn, về một cuộc đời có nhiều ánh sáng hơn, nhiều niềm vui hơn. Và khi nhà văn miêu tả nỗi khát khao bé nhỏ hết sức tội nghiệp của chị em Liên, ông không chỉ muốn qua đó thể hiện bức tranh hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người mà hơn thế,nhà văn còn gợi lên trong ta những khát khao cao đẹp, những ước muốn được đấu tranh cho sức sống tươi đẹp của con người.Nói như nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”. Thạch Lam cũng đã gặp Sôlôkhôp trong quan niệm về văn học ấy khi ông khẳng định văn chương chính là thứ khí giới để làm cho “lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Với Thạch Lam, “cái đẹp chính là sức sống” (Secnưsepxki). Không có gì cao cả hơn sức sống trên trái đất này. Và thông qua “Hai đứa trẻ”. Nhà văn đã mang đến cho ta một niềm tin về cuộc sống, thức tỉnh ta thoát khỏi kiếp sống mòn mỏi, bế tắc, ngột ngạt về tinh thần, khơi dậy trong ta ý thức đấu tranh cho cái đẹp trong tâm hồn những đứa trẻ, cũng là cho cái đẹp trên trái đất này.

Thiếu đi tình yêu mến cuộc sống,lòng trân trọng sức sống của mọi người xung quanh,làm sao Thạch Lam có thể viết nên những tác phẩm có giá trị, những sáng tác để cho cái đẹp trên trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh về hạnh phúc, niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và cho cái rực rỡ như những mặt trời không bao giờ tắt?
Có một lần khi viết về Nguyễn Tuân,Thạch Lam đã khẳng định: “Trong cái vội vã cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực những tác phẩm đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là một công việc quý báu và thiêng liêng”. Chúng ta cũng có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Đọc văn Thạch Lam, quả thực, ta thấy được “đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.

Nguyễn Tuân đã cảm nhận ở Thạch Lam cái thần chắt chiu từ ngòi bút nhà văn, cũng chính là cái thần thái của con người Thạch Lam. Đó là một nhà văn dịu dàng trong hành động, nhân từ trong suy nghĩ, một nhà văn bằng cả cái tinh tế của hồn mình để cảm nhận được cái sắc màu của lá rơi, của những gì dịu dàng bé nhỏ nhất trong đời. Văn Thạch Lam cũng có cái phong thái ấy. Đó là phong thái của những tác phẩm “cốt cách và phẩm chất văn học”. Trước hết nên hiểu thế nào là một tác phẩm có “cốt cách và phẩm chất văn học”? “Cốt cách” là cái riêng, cái độc đáo, phong cách thể hiện được hồn người, tình người. Một tác phẩm có “cốt cách” phải là một tác phẩm có giá trị, mang đến cho người đọc những hiểu biết và khơi gợi những tình cảm đẹp. Hơn thế, nó phải có “phẩm chất văn học” nghĩa là phải được chứa đựng trong một hình thức phù hợp, có phương tiện biểu hiện nghệ thuật tương xứng.

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giờ đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhặn, bình dị, đượm buồn trong lối viết của ông. Cái dư vị Thạch Lam tạo ra được chính là thực chất cuộc sống với những đau khổ của con người, những nỗi thương tâm của những chị Tí, những cô hàng xén và những cao đẹp trong hồn người: tình yêu thương con người của bé Sơn, khát vọng đáng quý của Liên, những rung cảm nhẹ nhàng trong tâm hồn Thanh (Dưới bóng hoàng lan) khi trở về quê,... Những rung động ấy chính là cái dư vị của chất thơ trong trang viết Thạch Lam và đó cũng là “nhã thú” mà Nguyễn Tuân nói đến khi tiếp cận, đọc lại để lắng nghe chất thơ dịu nhẹ mà Thạch Lam lượm lặt để góp lên trang viết của mình - một chất thơ bàng bạc toát ra từ tâm hồn người, nó cũng là cái đẹp.

Đưa ta vào thế giới của những rung ngân tinh vi trong tâm hồn, Thạch Lam đã có được “niềm vui của những người nghệ sĩ chân chính là niềm vui của những người biết vươn tới tương lai” (Pauxtôpxki).

Suốt đời tâm huyết với văn chương và những năm tháng ngắn ngủi của những ngày sống trên đời này, Thạch Lam đã đem trái tim mình đặt lên trang viết, cho nó sống mãi với ý nghĩa của những tác phẩm có giá trị.

Bằng “những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”, Thạch Lam xứng đáng với lòng yêu quý và trân trọng của mỗi người đọc chúng ta, xứng đáng với thiên chức của người nghệ sĩ.

(Nguyễn Thu Hiền | Trường THPT chuyên Trần Phú - Hải Phòng | Bài đoạt giải Nhì cuộc thi HSG Quốc gia năm 2000)
Thêm
1K
0
0
Điểm sáng mà nhà văn Kim Lân muốn đem vào tác phẩm Vợ nhặt - đó chính là tình người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương.


5564

Phân tích tắc phẩm Vợ nhặt (Kim Lân)​


Đề ra: Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).

Bài viết

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay vào viết ngay tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy.

Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ nhặt đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người".

Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương.

Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ, giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.

Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống Nhặt vợ của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia.

Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của cái xóm cư ngụ ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.

"Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bồng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thực liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật có lý và xót thương vô cùng.

Và dường như lúc ấy, trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi.

Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy: tình cảm của một con người, biết yêu thương, biết cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia trình trong hắn.

Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận Hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng".

Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?

Trong con người của Tràng khi trở dậy sau đó khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xăm ra sân dọn dẹp nhà cửa.

Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện.

Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên, từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì đã làm thị biến đổi như thế.

Đó chính là tình người, là tình thương yêu, thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt đời sống con người, thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế "vân vê tà áo dài đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình.

Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai, thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng trầm trong đau khổ, cùng cực.

Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật ấy để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp, tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khó nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ.

Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói.

Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật, có cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy.

Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên và cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.

Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà "lòng đầy thương xót". Bà thiết nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng:

"Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa.

Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không bùng cháy lên ngọn lửa của tình người.

Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu, lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con niềm tin về cuộc sống.

Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại ấy. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt, chi tiết nồi chè cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người, nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương.

Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu "Chè khoán đây - ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.

Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.

Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít, nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

“Cái đẹp cứu vớt con người” C. Đôtôiepki. Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.

(Nguyễn Thị Thu Trang)
Thêm
Tình người và niềm hy vọng trong cuộc sống ở các nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân)
  • Like
Reactions: Trần Ngọc 2021
870
1
1
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời.


5563
Đề ra

Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).

Trong kỳ tuyển sinh đại học năm 2009, Nguyễn Trung Ngân dự thi ĐH Cần Thơ là thí sinh duy nhất trong cả nước đạt 9,75 (làm tròn thành 10 điểm).

Bài viết

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém.

Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.

Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho than phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ.... Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng... Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến...

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài. Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Thêm
Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (bài văn đạt điểm tuyệt đối)
  • Like
Reactions: Trần Ngọc 2021
817
1
1
Kì thi học sinh giỏi là một trong những kì thi đánh giá cao năng lực, kĩ năng của các bạn học sinh. Đồng thời, các dạng đề bài ở kì thi này vô cùng đa dạng
Dưới đây là một trong những đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn lớp 9 mời các em cùng tham khảo

4588
Thêm
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn lớp 9
  • Like
Reactions: Vanhoctre
2K
1
1
Nhà phê bình người Nga Belinxky viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó” (Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 1993, trang 62).
Bằng hiểu biết về văn học, anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

Bài làm

Dostoevsky khi lí giải động lực khiến mình cầm bút đã nói rằng: “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ”. Còn R. Tagore mong muốn sau khi từ giã cõi đời, được nhắn nhủ lại một lời: “Tôi đã từng yêu”. Có phải bởi những nhà văn, nhà thơ vĩ đại – những con người đã sống, đã sống hết mình và yêu hết mình với cuộc đời, với con người bởi thấm thía sâu sắc rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó” (Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 1993, trang 62).

Saltykov Shchedrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất tử? Ở tài năng hay ở tấm lòng người cầm bút? Ý kiến của nhà phê bình Nga Bielinxky trên đây đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí, quyết định tư tưởng, tình cảm, hay nói cách khác, cái tâm của người cầm bút quyết định sức sống của một tác phẩm nghệ thuật, ở đây được hiểu là tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học chỉ sống được trong những tư tưởng, tình cảm mãnh liệt của người cầm bút mà thôi.

Trước hết, qua nhận xét của mình, Belinxky muốn lên án thứ văn chương “miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả”. Đúng là văn học nghệ thuật ra đời để miêu tả, phản ánh hiện thực cuộc sống con người. Nhưng đó không phải là mục đích duy nhất của văn học. Nếu văn học chỉ miêu tả cuộc sống đơn thuần không thôi thì đó đâu khác bức ảnh, bản photo nguyên xi, máy móc, vô hồn về cuộc sống. Và liệu rằng các tác phẩm ấy có thể cung cấp cho người đọc nhiều hiểu biết chính xác, phong phú, khách quan hơn các công trình khiên cứu khoa học được chăng? Sao chép nguyên xi hiện thực, mô phỏng cuộc sống một cách vụng về, văn học nghệ thuật sẽ không còn là văn học, sẽ “chết” như cách nói của Belinsky.

Vậy điều gì giúp cho các tác phẩm văn học, mặc dù vẫn miêu tả, thể hiện những khám phá về cuộc sống lại không trở thành những bức ảnh vô hồn hay những bản thống kê chi tiết đến khô cứng, lạnh lùng? Belinsky đã chỉ ra rằng, tác phẩm ấy phải là “tiếng thét khổ đau” hoặc là “lời ca tụng hân hoan”, tức là phải in đậm bầu cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi lẽ văn học là làm theo quy luật của tình cảm. Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của trái tim. Nhà văn chỉ viết được khi “trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nếu như các ngành khoa học loại bỏ cái tôi trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa cho sự sáng tạo. Viên Mai đã từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể không có cái tôi”. Thơ nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu cái tôi - ở đây là dấu ấn tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện thực cuộc sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm? Hiện thực cuộc sống, dù phong phú, kì diệu đến mấy mà không được thổi hồn bởi tình cảm mãnh liệt của người cầm bút thì cũng chỉ là những hình ảnh lay lắt, không có sức sống trong tác phẩm mà thôi. “Đừng cậy thời đại anh hùng nếu tâm hồn anh cứ bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, lời khuyên răn chính mình của nhà thơ Chế Lan Viên. Cho hay, đó cũng chính là điều sinh tử với người cầm bút.

Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình thành một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng đồng cảm của người học. Vậy làm sao tác phẩm nghệ thuật có thể lay động sâu xa tâm hồn người đọc, có thể khiến độc giả cùng vui, buồn, xôn xao, giận hờn, đau khổ, căm phẫn… cùng nhân vật khi mà nhà văn không thực sự xúc cảm, không viết từ chiều sâu con tim? “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình cũng phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Nhà văn phải đau cái đau của nhân vật, phải buồn cái buồn của nhân vật, vui cái vui của cuộc sống, của con người, khi ấy tác phẩm của anh mới có “sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại” (Hoài Thanh). Cảm xúc trơ lì, sáo mòn; tình cảm nông cạn, hời hợt, giả dối; tác phẩm chỉ là những con chữ vô hồn, xác ép khô không gây xúc động nơi người đọc. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tim. Với ý nghĩa ấy, tác phẩm văn học đã bắc nhịp cầu linh diệu nối liền trái tim nghệ sĩ với tâm hồn độc giả để trong đời này có nhiều yêu thương, sẻ chia hơn.

Nhà văn Nga Gercen đã từng cho rằng: “Nhà văn là một nỗi đau khổ”. Khổ đau trong cuộc đời, các nhà văn đã thấu hiểu sâu sắc “mọi nỗi đau đớn của con người thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ,… của loài người” (Đặng Thai Mai). Nguyễn Du đã viết “Truyện Kiều” bởi “nỗi đau đớn lòng” trước những điều Người đã “trông thấy”, đã từng trải qua trong cuộc đời. “Truyện Kiều” là tiếng kêu đứt ruột về những kiếp sống bị đọa đày. Ai biết trong mười lăm năm lưu lạc của mình, Thúy Kiều đã từng bao lần rơi lệ, đã từng bao lần bị đánh đập, hành hạ? Và ai biết được,người nghệ sĩ có trái tim nhân đạo vĩ đại – Nguỹen Du đã bao lần nhỏ lệ trước “số phận một con người” bất hạnh, đau đớn, ê chề. “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Nỗi đau ấy đã lại một lần thôi thúc Người viết nên hai câu thơ, mà hôm nay và mai sau hãy còn vang vọng:

“Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Không cầu kì, hoa mỹ, đó là những lời huyết lệ, những lời tâm can của chính Nguyễn Du. Những câu thơ như thế, có gì hay, có gì mà hấp dẫn muôn triệu trái tim, muôn triệu tâm hồn? Phải chăng bởi đó là “tiếng thét khổ đau”, bởi đó là sự trào dâng mãnh liệt của cảm xúc, của tình yêu thương con người. Mượn cốt truyện của người xưa nhưng Nguyễn Du không sao chép nguyên xi. Người đã thổi hồn cho những con chữ, những hình tượng sống dậy mãi trong tâm hồn, trong những sướng khổ, buồn vui của biết bao thế hệ con người Việt Nam hôm nay và mai sau.

Khác với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng viết về người phụ nữ, nhưng với tâm trạng của người trong cuộc, hay đúng hơn, viết bằng sự trải nghiệm của chính bản thân mình. Những vần thơ của Xuân Hương là sự lên tiếng của một thân phận. Bất hạnh trong cuộc đời riêng, Xuân Hương tìm đến thơ như người bạn tâm tình - nơi gửi gắm, kí thác những nỗi niềm suy tư. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người đọc có thể bị cuốn đi bởi các câu thơ mỉa mai sát sàn sạt, những lời mắng chửi té tát, không thương tiếc với bọn “hiền nhân quân tử”, những vua chúa, sư sãi giả dối, hợm hĩnh, vô luân,… Nhưng đằng sau những nụ cười “rất mạnh, rất sâu” ấy là những giọt nước mắt, những “tiếng thét khổ đau” cho thân phận người phụ nữ. Để rồi đọc thơ bà, ta thấy “cần phải khóc” trước những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”, trước cảnh ngộ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Khao khát mãnh liệt về tình yêu, về hạnh phúc, nhưng cuối cùng, nữ sĩ được gì ngoài “kiếp lấy chồng chung”, ngoài thứ tình cảm chia năm sẻ bảy “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Hồ Xuân Hương muốn vượt thoát tất cả, muốn “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” để không còn những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Nhưng cái xã hội phong kiến bất công phi nhân tính ấy đâu có để nữ sĩ sống hạnh phúc, bình yên như mong muốn. Cho nên tiếng thơ Hồ Xuân Hương đọng lại một niềm đau, không dễ quên, không thể nguôi.
Trong truyện ngắn nổi tiếng “Chí Phèo”, Nam Cao lại quay tấm gương cuộc sống, cho ta thấy một kiếp sống tủi nhục trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Ấy là Chí Phèo, một nạn nhân đau khổ của một xã hội cạn khô tình người với những ác quỷ mang bộ mặt người. Sinh ra không tình yêu thương của mẹ cha, Chí Phèo lớn lên trong sự đùm bọc của những người như: anh thả ống lươn, bà cụ mù lòa, bác phó cối nghèo nhưng tốt bụng. Nhưng những người năm ấy, như chính những câu văn tái hiện rất ngắn gọn của Nam Cao, lướt qua cuộc đời Chí như những cơn gió. Phần còn lại của cuộc đời, Chí đâu có gì ngoài những năm tháng tù tội, những lần rạch mặt ăn vạ, những khinh bỉ, miệt thị của người đời? Gặp Thị Nở, cứ tưởng cuộc đời Chí sẽ bừng sáng, sẽ ngời lên hồi chuông an lành nhưng hạnh phúc, tình yêu thoảng qua như hơi cháo hành, như ảo ảnh về nguồn nước giữa sa mạc khô tình người. Người nhen lên ngọn lửa lương tri, tình người cũng chính là người dập tắt hi vọng trở về với cuộc đời của Chí. Và khi “mất thiên thần, người đã chết”. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Chí đã chết khi miệng còn “ngáp ngáp” như muốn thanh minh, muốn bày tỏ với cuộc đời, với con người. Còn gì đau đớn hơn thân phận của con người ấy? Viết về những số phận bất hạnh ấy, ngòi bút Nam Cao đâu chỉ nhằm phản ánh chân xác thực trạng con người bị tha hóa trong xã hội cũ. Đằng sau câu chữ, cách xưng hô có vẻ lạnh lùng, dửng dưng, miệt thị ấy là một trái tim ấm nóng tình yêu thương con người. Nam Cao đã từng mong muốn viết lên những tác phẩm làm cho “người gần người hơn” thì với Chí Phèo, ông đã làm được điều đó. Bởi lẽ nhà văn đã “đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang vọng của đời” cho nên những tác phẩm của ông, những “tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” sẽ còn sống mãi.

Mặt trời không chỉ có mây đen mà còn có những tia nắng vàng, cuộc sống không chỉ có những nỗi khổ đau mà còn có những niềm vui sướng. Văn học phản ánh hiện thực, không chỉ là phản ánh những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp, những niềm vui của cuộc sống, của con người. Hài kịch “Người lái buôn thành Venice” của Shakespeare là tiếng cười ngạo nghễ, sung sướng; là lời ngợi ca hân hoan sự chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Thơ Xuân Diệu là “bầu xuân”, là “bình chứa muôn hương” của tuổi trẻ, sức sống và tình yêu:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
(Vội vàng)

Người ta gọi thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này” phải chăng bởi nhà thơ đã đốt cháy xúc cảm say mê mãnh liệt với cuộc đời. Cuộc sống muôn đời vẫn vậy. Thế nhưng những cảnh sắc của cuộc sống đi qua tâm hồn nồng nàn tình yêu cuộc đời của Xuân Diệu lại ánh lên những màu sắc diệu kì, lại ngân lên những thanh âm du dương. Thế giới, qua cặp mắt “xanh non biếc rờn” của thi sĩ họ Ngô là khu vườn tình ái, nơi ong bướm đang trong “tuần trăng mật”, nơi chim muôn ca lên “khúc tình si”, nơi tạo hóa đắm chìm trong “cặp môi gần” của tháng giêng. Đó còn là bữa tiệc thịnh soạn, phong phú của cuộc sống “nở hoa dâng tặng người muốn hái”. Đẹp làm sao! Làm sao Xuân Diệu có những cảm nhận tinh tế, diệu kì ấy nếu nhà thơ dửng dưng, vô cảm với cuộc đời. Chính niềm khao khát giao cảm với cuộc đời, chính niềm yêu sống đến cuồng si, mãnh liệt đã giúp thi sĩ phát hiện ra vẻ đẹp của cuộc sống. Những vần thơ như “lòng” Xuân Diệu mở ra, như tay Xuân Diệu muốn chìa ra mời mọc, gợi mời con người. Sao có thể không nhớ, không yêu những vần thơ say đắm, thiết tha đến dường vậy! Thơ Xuân Diệu, tự bản thân nó không phải sự mô phỏng cuộc sống. Đó là lời tụng ca hân hoan, đắm đuối trước vẻ đẹp đích thực của cuộc sống.

Cũng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã cất lên tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp giá trị của cuộc sống trong những năm tháng đất nước độc lập, tiến lên xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới.

“Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả,
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn,
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn…”
(“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”)

Bước ra từ những tháp Chàm đổ nát để hòa nhập với cuộc đời, Chế Lan Viên như thoát khỏi “thung lũng đau thương” để tìm đến “cánh đồng vui”. Ấy là cuộc sống mới của những con người mới. Nhà thơ thấy cuộc đời thật đẹp, thật phong phú, mến yêu biết bao nhiêu. Lần đầu tiên trong cuộc đời, nhà thơ cảm nhận được vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Sung sướng lắm! Tự hào lắm! Bởi được sống, được cống hiến, và thấy đời mình có ý nghĩa. Những lời thơ ấy đã ngân vang điệu nhạc rạo rực, say mê, hân hoan của hồn người. Âm hưởng của khúc nhạc thần kì ấy sẽ còn vang vọng và dư ba.

Như vậy, có thể nói tình cảm là điều kiện không thể thiếu để có tác phẩm nghệ thuật đích thực. Cảm xúc chân thành mãnh liệt, tự nó đã là giá trị của tác phẩm văn học. Nó cũng chính là “cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại”. Nhưng nếu chỉ có tình cảm không thôi, văn học liệu có dược sức sống, sức hấp dẫn kì diệu đến vậy hay không? Belinsky thêm một lần nữa nhấn mạnh vào vai trò đặc biệt quan trọng của tư tưởng đúng đắn, sâu sắc ở người viết. Tác phẩm nghệ thuật sẽ sống khi nó “đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó”. Theo tôi hiểu, những “câu hỏi” ở đây là những vấn đề nhà văn trăn trở, nghĩ suy về cuộc sống, về con người. Ấy là những “câu hỏi của cuộc sống” (Tố Hữu). Những câu hỏi ấy thể hiện cách nhìn, nhận thức, quan niệm nghệ thuật về con người, về xã hội của nhà văn. Nói cách khác, đó là sự hiện hình của tư tưởng nhà văn được biểu hiện trong tác phẩm. Tư tưởng nghệ thuật là một trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và giá trị của tác phẩm. Nguyễn Khải từng nói: “Giá trị của một tác phẩm văn học trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Còn Korolenco thì nhấn mạnh: “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học”. Tư tưởng sai lầm, lệch lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tội ác. Lỗ Tấn đã từng nói: “Làm một thầy thuốc kê đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm một viên võ tướng điều binh khiển tướng bậy chỉ nướng hết một đạo quân, còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến ba thế hệ.” Có được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vậy bởi nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của văn học. Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực tại xã hội” mà còn tham gia vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khíi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác”. Văn học góp phần làm cho cuộc sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn. Vậy nếu nhà văn chỉ đơn thuần tái hiện vẹn nguyên cuộc sống mà không gửi gắm một tư tưởng tiến bộ nào, liệu rằng văn học có thể hoàn thành nhiệm vụ cao cả ấy không? Hơn ở đâu, nhà văn phải thể hiện, phải đặt ra và giải quyết những vấn đề quan trọng về nhân sinh. Để mỗi người đọc, đến với tác phẩm, đều phải day dứt, ám ảnh về điều đó, để rồi tự tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề về con người. Tìm hiểu sâu sắc về bản chất cuộc sống, về bản chất con người cho hay cũng là nhu cầu tiếp nhận chính đáng của người đọc. Độc giả tìm đến tác phẩm văn chương đâu phải chỉ để hiểu biết về hiện thực cuộc sống, mà còn muốn tìm hiểu ý nghĩa, giá trị, bản chất của cuộc sống, để tìm câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở, nghĩ suy của bản thân mình. Bởi vậy, tác phẩm nghệ thuật phải “đặt ra những câu hỏi” và có thể, còn cần phải “trả lời những câu hỏi đó”. Nam Cao, qua số phận bi kịch của Chí Phèo đã cất lên câu hỏi: Làm thế nào cứu vớt những con người đang đứng trên vực thẳm của sự tha hóa nhân tính và nhân hình? Làm thế nào để xã hội này không còn những Chí Phèo? Câu hỏi ấy vang vọng, văng vẳng suốt thiên truyện, đau đáu mãi không nguôi. Nó hiện hình trong lời kết án đau đớn tuyệt vọng của Chí Phèo trước khi tự kết liễu đời mình: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. Nhà văn dẫu không trả lời trực tiếp, nhưng qua tác phẩm của mình, Nam Cao đã ngầm đưa ra câu trả lời cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí. Phải tiêu diệt xã hội đại ác, vạn ác này; phải tiêu diệt những con quỷ dữ Bá Kiến, Đội Tảo,… để cuộc đời này không còn những Chí Phèo. Và quan trọng hơn, để cứu rỗi những linh hồn tội lỗi như Chí Phèo, cần có một “lòng tốt bình thường”- tình người chân thành, mộc mạc như Thị Nở. Chỉ tình người mới cứu được tính người. Ấy là thông điệp nhân sinh, là câu trả lời sâu sắc, đúng đắn của Nam Cao cho những vấn đề bức xúc của xã hội. Cũng như thế, Thạch Lam, trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, không dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống tù túng, quẩn quanh, vô nghĩa, mòn mỏi đến tội nghiệp của những người dân nơi phố huyện nghèo. Nhà văn còn đặt ra những câu hỏi, những thông điệp sâu sắc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ, hãy cứu lấy tương lai của phố huyện. Điều mà Thạch Lam trăn trở không phải vấn đề cơm áo, sưu thuế, bất công xã hội mà còn là quyền sống có ý nghĩa của con người. Xã hội Việt Nam trước Cách mạng như “ao đời phẳng lặng” nhấn chìm mọi sự sống, lăm le muốn cướp đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống đối với mỗi con người. Hai đứa trẻ - những mầm xanh mới đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất cạn khô nhựa sống của phố huyện liệu có trở thành bà cụ Thi điên, liệu có là chị Tí hay bác phở Siêu, gia đình bác xẩm? Câu trả lời ấy, Thạch Lam không nói nhưng rõ ràng, nhà văn đã hé mở cho người đọc điều đó. Tại sao chị em Liên không nhập vào không khí tù đọng của phố huyện mà tối tối lại cố thức chờ đoàn tàu qua? Có phải đoàn tàu đem đến cho Liên và An nhận thức ở đâu đó ngoài phố huyện còn có một miền đời, một cuộc sống khác ý nghĩa hơn? Như thế, con người phải tự vượt lên để không bị hoàn cảnh, để không bị cuộc sống vô nghĩa nhấn chìm. Đó chính là chiều sâu nhân đạo trong sáng tác của Thạch Lam.

Ý kiến của Belinsky đã đặt ra yêu cầu hết sức đúng đắn, cần thiết, quan trọng với người cầm bút: ấy là anh phải có cái tâm trước cuộc sống, con người. Đó cũng chính là bài học đối với những nghệ sĩ. Muốn có được tác phẩm sống mãi với thời gian, anh phải sống sâu sắc với cuộc đời, nói như giáo sư Đặng Thai Mai phải biết “sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ và cả những ước mong tha thiết nhất của loài người”. Để viết nên tác phẩm, nhà văn phải “tìm tòi…, phải yêu rất nhiều và phải chịu nhiều đau khổ” (Gioócgio Xang). Và lịch sử văn học, thực chất chính là lịch sử của những tư tưởng vĩ đại của người nghệ sĩ.

Tìm hiểu ý kiến của Belinsky, tôi càng thấm thía quy luật đào thải nghiệt ngã nhưng công bằng của thời gian, của công chúng. Có những tác phẩm dù trung thành với nguyên tắc phản ánh hiện thực, thậm chí hết sức hiện thực nhưng không thể hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc nào. Những tác phẩm ấy chỉ là bức ảnh vô hồn, thậm chí rơi vào tự nhiên chủ nghĩa bởi tình cảm, tư tưởng miệt thị con người, bi quan với cuộc đời. Lại có những tác phẩm chỉ đắm chìm trong cảm xúc hay mê mải chạy theo những tư tưởng kì vĩ. Chỉ những tác phẩm nào có sự hòa quyện cao độ giữa tư tưởng đúng đắn, sâu sắc với tình cảm chân thành, mãnh liệt của người cầm bút mới có giá trị và sức sống bền lâu.
Thế nhưng, văn chương trước hết là văn chương, nghệ thuật trước hết là nghệ thuật. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay, cái đẹp của nghệ thuật. Tư tưởng, tình cảm sâu sắc, mãnh liệt đến mấy mà không được chuyển tải qua hệ thống phương tiện nghệ thuật giàu giá trị thẩm mỹ thì không thể thức tỉnh, lay động tâm hồn người đọc. Gogol đã rất khổ tâm khi “những tình cảm thật quý có thể trở nên tầm thường khi diễn đạt ra thành lời”. Người nghệ sĩ vĩ đại không chỉ có cái tâm mà còn phải có cái tài để cái tâm được tỏa sáng lung linh.

“Rồi nhân dân sẽ còn trìu mến tôi mãi mãi vì tôi đã dùng thơ đánh thức những tình cảm tốt lành, vì trong thế kỉ tàn khốc của chúng ta, tôi ngợi ca tự do và lòng thương những kẻ khốn cùng”. Bất cứ nghệ sĩ nào đã sống sâu sắc với cuộc đời, đã đau đớn, mừng vui với những vui buồn, sướng khổ của loài người đều có quyền tự hào và tin tưởng như Puskin về sự tồn tại vĩnh hằng của những tác phẩm nghệ thuật chân chính của mình.

(Nguyễn Thị Hải Hậu, tỉnh Phú Thọ)
Thêm
2K
3
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top