Hai nhà phê bình Hoài Thanh và Tạ Tỵ đã tiếp cận theo hướng phê bình nội tại, ấn tượng chủ quan khi nói về Vũ Hoàng Chương trong tác phẩm Thi nhân Việt Nam và Mười khuôn mặt văn nghệ.
(Bàn về Vũ Hoàng Chương)
Trong “Mười khuôn mặt văn nghệ” Tạ Tỵ đã khai thác vấn đề tâm linh trong thơ ca và đời sống của Vũ Hoàng Chương. Vũ Hoàng Chương như một bức tượng, đứng cô độc, cô liêu trong vòm trời của quá khứ. Ông luôn trăn trở và suy nghĩ giữa sự sống và cái chết. Một người yêu thi ca, từ bỏ công danh phú quý để đi theo nghiệp thi ca. Thơ văn của Vũ vô cùng đặc biệt, nó không hề giống với bất cứ thơ văn người nào, thơ ông mang nỗi lòng, thơ mang đậm màu sắc cá nhân của tác giả. Tác giả dùng thơ ca bộc lộ những vui buồn, đau đớn và hạnh phúc, thơ vũ còn mang hơi thở nối tiếp từ kiếp trước.
Phong cách thơ của Vũ Hoàng Chương rộng lớn có phần mang màu sắc tâm linh của thế giới mộng tưởng. Tạ Tỵ dùng những lời văn tinh túy nhất để ta phòng thái sáng tác của Chương, sử dụng các từ bay bỗng như: “Cánh chim hồng hạc bây suốt vạn dặm dài, qua bao nhiêu không giận ước định. Thơ Vũ hiện diện như loài hoa quý, ngạo nghễ rung rung từng cánh mỏng cho phấn hương tan vào thinh không gửi đến mọi phương trời”. Ví thơ cũng như tâm tư Vũ như một bông hoa giữa một trời u ám, bông hoa không được tỏa sáng. Có thể thấy Vũ là người mang một suy nghĩ về thời cuộc, một người bất bình trước thực tại chỉ muốn sống mãi dưới thế giới ảo ảnh của riêng bản thân. Thơ của Vũ Hoàng Chương là một dòng thơ vừa ngọt ngào nhưng mang phần cay đắng, giữa người và quỷ trong thơ ông luôn gần gũi, không có một ranh giới nào cả, những vật tưởng chừng như vô tri vô giác như: khúc gỗ, hồn đá lại trở nên có cảm xúc, có hồn như chính con người thực thụ. Tình yêu giữa người và quỷ cũng được ông thể hiện chứ không phải một cảm giác sợ hãi, né tránh, cách thể hiện trong thơ ca của ông như nói lên một phần con người ông. Vũ Hoàng Chương hiện ra với một màu sắc mới trong thi ca, ông như người đưa những điều tâm linh vào thế giới con người một cách bình thường và nhẹ nhàng nhất, ẩn sâu bên trong có lẽ là người mang nhiều trăn trở về cuộc sống mới tìm đến thế giới như vậy.
Đáy sông chìm tiếng sóng,
Lời gió ngủ trên cao.
Quanh thuyền ngơ ngác bày sao,
Nàng Trăng còn mải xứ nào xe duyên!
Nhưng đêm nay dịu quá,
Không trăng có hề chi,
Say sưa tràn miệng cốc.
Cùng nâng, hãy uống đi!
Trùng lai đâu dễ hẹn kỳ.
Đò ngang một chuyến chắc gì mai sau!
Tối nay còn họp mặt,
Ngày mai đã cách xa.
Vàng xanh thay sắc cỏ,
Tươi úa đổi màu hoa.
Đường trần muôn vạn ngã ba,
Nhớ nhung muốn gặp biết là có nên.
Giờ đây chia đôi ngả,
Sông nước càng tiêu sơ.
Hồn men cay như quế,
Hồn men đắng như mơ.
Đắng cay này chén tiễn đưa,
Uống đi, uống để say sưa ngập lòng.
Cạn đi! và lại cạn!
Say rồi, gắng thêm say!
Bao nhiêu mơ, mà đắng?
Bao nhiêu quế, mà cay?
Đắng cay chút xuống bàn tay,
Nắm tay lần chót, thuyền quay mũi rồi.
Thuyền anh đi thôi nhé,
Xa nhau dần xa nhau.
Tôi về trên lưng rượu,
Đến đâu thì đến đâu.
Có ai say để quên sầu?
Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn.
(Chén rượu đôi đường - VHC )
Ám ảnh với những ảo mộng của tình yêu trong thơ ca của Vũ. Tình yêu trong thơ của Vũ Hoàng Chương mang sự đượm buồn, tiếc thương và nhung nhớ, bóng dáng những người con gái Vũ yêu thương được đan cài trong thơ ca ông. Là một thi sĩ, có tâm hồn nhạy cảm nhưng Vũ vẫn in mãi một bóng hình, bóng hình người đàn bà tên Kiều Thu. Đây cũng chính là cái tên quen thuộc trong thơ ca của Vũ Hoàng Chương. Tình yêu trong thơ ca của Vũ Hoàng Chương không hề ngọt ngào mà nó khắc khoả những hoài niệm tiếc nuối và nhớ nhung bóng hồng xưa. Qua cách Tạ Tỵ diễn đạt thì ta thấy được ở Vũ Hoàng Chương một con người đa sầu mang tâm tư và giành trọn tình yêu cho một người. Những dòng thơ tình yêu của ông như câu ai oán, một tình yêu tỉ tê trong lòng, âm ỉ và dai dẳng không thể nào ngớt được, thơ ông cũng thường sử dụng những từ chỉ thời gian thề non hẹn biển, mang phong cách của những bậc thi nhân hán học ngày xưa.
Tối qua em ngồi học,
Lơ đãng nhìn đi đâu,
Dưới đèn anh thoáng nhận.
Nét mặt em rầu rầu.
“Em buồn?” Anh gặng hỏi,
Mấy lần, em chẳng nói.
Rồi anh không biết vì sao,
Đẩy ghế đứng lên, em giận dỗi...
Rũ tung làn tóc, rún đôi vai,
Em vùng vằng,
Ôm sách vở,
Sang phòng bên,
Không học nữa,
Không cho ai vào nữa,
Cũng không thèm nghe nữa,
Lời thiết tha anh van gọi mái ngoài.
Nhưng anh nghe thổn thức
Em khóc trên gối thêu,
Nhưng anh nghe tấm tức,
Em giận hờn bao nhiêu!
Em khóc! Làm sao mà dỗ được?
Nhưng anh còn biết làm sao!
Gọi em, em nhất định,
Không mở khoá cho vào.
Từng giây từng phút lòng anh càng bối rối nao nao.
Anh vẫn nghe tiếng khóc,
Trong vạt áo len hồng.
Anh vẫn nghe tiếng nấc,
Dồn dập trên gối nhung.
Sao em khóc? Vì đâu hờn tủi?
Em buồn, có phải lỗi anh không?
Hỏi em, em chẳng nói,
Mặc anh xô cửa phòng.
Ngoài hiên vắng, gió đưa vàng rụng đến,
Ngọn tường vi, xuống mãi chiếc liềm cong.
Đêm gần khuya, sương đổ,
Anh thấy ướt vai áo.
Anh thấy lạnh trong lòng.
(Bài Hờn dỗi, Thơ say, Vũ Hoàng Chương)
Vũ Hoàng Chương một nhà thơ ảnh hưởng mang hoài niệm về những gì xưa cũ và khao khát đối thoại với bản ngã của chính mình. Vũ Hoàng Chương là một người sống với những hoài niệm xưa cũ, ông không đối diện với thực tế mà trở về để quá khứ, vũ không đối diện với thực thể mà ông đang sống, mà tìm về những Niềm tin nơi dĩ vãng của quá khứ, tìm về cái gọi là tâm linh để được như những vị thánh hiền ngày xưa như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, … Vũ dùng thế giới tâm linh để nối kết tâm hồn mình lại để được sống với những gì đã qua, một con người của quá khứ, hoài niệm và tự nhốt mình trước cuộc sống thực tại mà ông đang sống. Vũ có những giấc mơ thoát rời thực tế, sống vào cuộc ảo mộng của chính bản thân tạo nên, vũ luôn loay hoay tìm kiếm những bản ngã trong chính con người mình, vũ luôn mượn yếu tố tâm linh như một liều thuốc giải khuây cho cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của bản thân. Vũ Hoàng Chương chịu ảnh hưởng sâu nặng từ nền thi ca Trung Quốc thời thịnh Đường và thuyết vô vi của Lão Tử. Vũ Hoàng Chương qua ngòi bút của Tạ Tỵ là một người vô thực, thoát hoàn toàn ra khỏi hiện thực, ông bất mãn và mất niềm tin về thế giới con người, ông dần dần khép mình lại với thế giới xung quanh và mở rộng những suy nghĩ trong tiềm thức của mình, ông phát triển thế giới tâm linh hơn và cùng tâm sự với những ám ảnh, linh hồn trong suy nghĩ của mình. Ông sống và làm bạn với những người linh hồn trong tiềm thức của bản thân, ông nói chuyện với quỷ bằng những giọng tiếc nuối. Những vật vô tri như đá, gỗ, cây được Vũ khoác lên một linh hồn, linh hồn như con người, có cảm xúc và được Vũ trò chuyện như các thi nhân.
Thế nhưng Tạ Tỵ còn thấy được sự đơn độc, lẻ loi trong chính con người của Vũ Hoàng Chương. Sự cô đơn ấy bắt nguồn từ suy nghĩ về thực tại, Vũ Hoàng Chương khép mình lại với con người xung quanh và mở lòng với cỏ cây, hoa lá. Vũ Hoàng Chương sinh ra trong thời đại nô lệ nên ông luôn hoài nghi và ám ảnh hiện thực đời sống, ông không tìm được tiếng nói trong cuộc sống vì thế ông dồn nén bao nhiêu nỗi cô đơn vào thơ ca, sự u uất trong tâm hồn của một thi sĩ. Vũ Hoàng Chương trăn trở về cái chết của con người, ông không xem cái chết là sự giải thoát mà ở ông nó là điều kinh khủng, vô cùng sợ hãi mà nói đúng hơn là cái chết đó là sự ảo tưởng của ông. Thơ của Vũ Hoàng chương mang màu sắc và hơi thở của phương Đông trầm mặc. Vũ Hoàng Chương muốn thoát khỏi cái thế giới này chỉ muốn đi sâu vào đời sống tâm linh vì ông đã chán ngán cõi đời, chán ngán cái nhân tình thế thái này.
Còn Vũ Hoàng Chương trong “Thi nhân Việt Nam” qua ngòi bút của nhà phê bình Hoài Thanh là một người từng trải, ông trải qua hết mọi thứ nhưng Hoài Thanh không gọi đó là truỵ lạc mà ông giải thích tất cả cái say mê của Vũ Hoàng Chương chung quy lại để phục vụ cho mục đích làm thơ của mình. Nếu như Vũ Hoàng Chương trong mắt Tạ Tỵ là một người suy tình, in mãi một bóng hình người xưa thì ở Hoài Thanh hiện lên một người chán ghét hôn nhân. Ông Vũ Hoàng Chương dùng một thái độ khinh bỉ đối với hôn nhân vì ông chỉ xem nó là sự ô uế và chỉ là sự chung chọi từ xác thịt lẫn nhau, đối với ông chính hôn nhân là cái phá vỡ bao nhiêu mộng đẹp tuổi hoa niên. Ông vẫn còn mang tư tưởng của Lão Trang. Cả hai nhà phê bình đều khai thác vấn đề tình yêu, hôn nhân và phong cách sáng tác thơ của Vũ Hoàng Chương.
Hoài Thanh và Tạ Tỵ là hai nhà phê bình lớn trong lĩnh vực văn chương. Nếu như Tạ Tỵ nhìn Vũ Hoàng Chương nhạy cảm gắng liền tâm linh vào cuộc sống thì ở Hoài Thanh lại khắc hoạ một Vũ Hoàng Chương mang đậm triết lý Lão Trang, một trong những đặc điểm của người Á Đông. Qua cách hai nhà phê bình khắc hoạ về cuộc đời sự nghiệp của Vũ Hoàng Chương, chúng ta nhận thấy ở ông là sự hoài niệm về cuộc đời, hoài niệm về quá khứ xưa cũ, loay hoay không tìm được hướng đi nên ông buộc phải tìm lại bản ngã của mình bằng ký ức.
(Bàn về Vũ Hoàng Chương)
Xem thêm các tác giả tiêu biểu khác:
Nguyễn Bính - người giữ hồn quê
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Nhà thơ Huy Cận
Sâu lắng hồn thơ Tế Hanh
Lưu Trọng Lư – “chiến tướng” của phong trào Thơ mới
Trong “Mười khuôn mặt văn nghệ” Tạ Tỵ đã khai thác vấn đề tâm linh trong thơ ca và đời sống của Vũ Hoàng Chương. Vũ Hoàng Chương như một bức tượng, đứng cô độc, cô liêu trong vòm trời của quá khứ. Ông luôn trăn trở và suy nghĩ giữa sự sống và cái chết. Một người yêu thi ca, từ bỏ công danh phú quý để đi theo nghiệp thi ca. Thơ văn của Vũ vô cùng đặc biệt, nó không hề giống với bất cứ thơ văn người nào, thơ ông mang nỗi lòng, thơ mang đậm màu sắc cá nhân của tác giả. Tác giả dùng thơ ca bộc lộ những vui buồn, đau đớn và hạnh phúc, thơ vũ còn mang hơi thở nối tiếp từ kiếp trước.
Phong cách thơ của Vũ Hoàng Chương rộng lớn có phần mang màu sắc tâm linh của thế giới mộng tưởng. Tạ Tỵ dùng những lời văn tinh túy nhất để ta phòng thái sáng tác của Chương, sử dụng các từ bay bỗng như: “Cánh chim hồng hạc bây suốt vạn dặm dài, qua bao nhiêu không giận ước định. Thơ Vũ hiện diện như loài hoa quý, ngạo nghễ rung rung từng cánh mỏng cho phấn hương tan vào thinh không gửi đến mọi phương trời”. Ví thơ cũng như tâm tư Vũ như một bông hoa giữa một trời u ám, bông hoa không được tỏa sáng. Có thể thấy Vũ là người mang một suy nghĩ về thời cuộc, một người bất bình trước thực tại chỉ muốn sống mãi dưới thế giới ảo ảnh của riêng bản thân. Thơ của Vũ Hoàng Chương là một dòng thơ vừa ngọt ngào nhưng mang phần cay đắng, giữa người và quỷ trong thơ ông luôn gần gũi, không có một ranh giới nào cả, những vật tưởng chừng như vô tri vô giác như: khúc gỗ, hồn đá lại trở nên có cảm xúc, có hồn như chính con người thực thụ. Tình yêu giữa người và quỷ cũng được ông thể hiện chứ không phải một cảm giác sợ hãi, né tránh, cách thể hiện trong thơ ca của ông như nói lên một phần con người ông. Vũ Hoàng Chương hiện ra với một màu sắc mới trong thi ca, ông như người đưa những điều tâm linh vào thế giới con người một cách bình thường và nhẹ nhàng nhất, ẩn sâu bên trong có lẽ là người mang nhiều trăn trở về cuộc sống mới tìm đến thế giới như vậy.
Đáy sông chìm tiếng sóng,
Lời gió ngủ trên cao.
Quanh thuyền ngơ ngác bày sao,
Nàng Trăng còn mải xứ nào xe duyên!
Nhưng đêm nay dịu quá,
Không trăng có hề chi,
Say sưa tràn miệng cốc.
Cùng nâng, hãy uống đi!
Trùng lai đâu dễ hẹn kỳ.
Đò ngang một chuyến chắc gì mai sau!
Tối nay còn họp mặt,
Ngày mai đã cách xa.
Vàng xanh thay sắc cỏ,
Tươi úa đổi màu hoa.
Đường trần muôn vạn ngã ba,
Nhớ nhung muốn gặp biết là có nên.
Giờ đây chia đôi ngả,
Sông nước càng tiêu sơ.
Hồn men cay như quế,
Hồn men đắng như mơ.
Đắng cay này chén tiễn đưa,
Uống đi, uống để say sưa ngập lòng.
Cạn đi! và lại cạn!
Say rồi, gắng thêm say!
Bao nhiêu mơ, mà đắng?
Bao nhiêu quế, mà cay?
Đắng cay chút xuống bàn tay,
Nắm tay lần chót, thuyền quay mũi rồi.
Thuyền anh đi thôi nhé,
Xa nhau dần xa nhau.
Tôi về trên lưng rượu,
Đến đâu thì đến đâu.
Có ai say để quên sầu?
Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn.
(Chén rượu đôi đường - VHC )
Ám ảnh với những ảo mộng của tình yêu trong thơ ca của Vũ. Tình yêu trong thơ của Vũ Hoàng Chương mang sự đượm buồn, tiếc thương và nhung nhớ, bóng dáng những người con gái Vũ yêu thương được đan cài trong thơ ca ông. Là một thi sĩ, có tâm hồn nhạy cảm nhưng Vũ vẫn in mãi một bóng hình, bóng hình người đàn bà tên Kiều Thu. Đây cũng chính là cái tên quen thuộc trong thơ ca của Vũ Hoàng Chương. Tình yêu trong thơ ca của Vũ Hoàng Chương không hề ngọt ngào mà nó khắc khoả những hoài niệm tiếc nuối và nhớ nhung bóng hồng xưa. Qua cách Tạ Tỵ diễn đạt thì ta thấy được ở Vũ Hoàng Chương một con người đa sầu mang tâm tư và giành trọn tình yêu cho một người. Những dòng thơ tình yêu của ông như câu ai oán, một tình yêu tỉ tê trong lòng, âm ỉ và dai dẳng không thể nào ngớt được, thơ ông cũng thường sử dụng những từ chỉ thời gian thề non hẹn biển, mang phong cách của những bậc thi nhân hán học ngày xưa.
Tối qua em ngồi học,
Lơ đãng nhìn đi đâu,
Dưới đèn anh thoáng nhận.
Nét mặt em rầu rầu.
“Em buồn?” Anh gặng hỏi,
Mấy lần, em chẳng nói.
Rồi anh không biết vì sao,
Đẩy ghế đứng lên, em giận dỗi...
Rũ tung làn tóc, rún đôi vai,
Em vùng vằng,
Ôm sách vở,
Sang phòng bên,
Không học nữa,
Không cho ai vào nữa,
Cũng không thèm nghe nữa,
Lời thiết tha anh van gọi mái ngoài.
Nhưng anh nghe thổn thức
Em khóc trên gối thêu,
Nhưng anh nghe tấm tức,
Em giận hờn bao nhiêu!
Em khóc! Làm sao mà dỗ được?
Nhưng anh còn biết làm sao!
Gọi em, em nhất định,
Không mở khoá cho vào.
Từng giây từng phút lòng anh càng bối rối nao nao.
Anh vẫn nghe tiếng khóc,
Trong vạt áo len hồng.
Anh vẫn nghe tiếng nấc,
Dồn dập trên gối nhung.
Sao em khóc? Vì đâu hờn tủi?
Em buồn, có phải lỗi anh không?
Hỏi em, em chẳng nói,
Mặc anh xô cửa phòng.
Ngoài hiên vắng, gió đưa vàng rụng đến,
Ngọn tường vi, xuống mãi chiếc liềm cong.
Đêm gần khuya, sương đổ,
Anh thấy ướt vai áo.
Anh thấy lạnh trong lòng.
(Bài Hờn dỗi, Thơ say, Vũ Hoàng Chương)
Vũ Hoàng Chương một nhà thơ ảnh hưởng mang hoài niệm về những gì xưa cũ và khao khát đối thoại với bản ngã của chính mình. Vũ Hoàng Chương là một người sống với những hoài niệm xưa cũ, ông không đối diện với thực tế mà trở về để quá khứ, vũ không đối diện với thực thể mà ông đang sống, mà tìm về những Niềm tin nơi dĩ vãng của quá khứ, tìm về cái gọi là tâm linh để được như những vị thánh hiền ngày xưa như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, … Vũ dùng thế giới tâm linh để nối kết tâm hồn mình lại để được sống với những gì đã qua, một con người của quá khứ, hoài niệm và tự nhốt mình trước cuộc sống thực tại mà ông đang sống. Vũ có những giấc mơ thoát rời thực tế, sống vào cuộc ảo mộng của chính bản thân tạo nên, vũ luôn loay hoay tìm kiếm những bản ngã trong chính con người mình, vũ luôn mượn yếu tố tâm linh như một liều thuốc giải khuây cho cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của bản thân. Vũ Hoàng Chương chịu ảnh hưởng sâu nặng từ nền thi ca Trung Quốc thời thịnh Đường và thuyết vô vi của Lão Tử. Vũ Hoàng Chương qua ngòi bút của Tạ Tỵ là một người vô thực, thoát hoàn toàn ra khỏi hiện thực, ông bất mãn và mất niềm tin về thế giới con người, ông dần dần khép mình lại với thế giới xung quanh và mở rộng những suy nghĩ trong tiềm thức của mình, ông phát triển thế giới tâm linh hơn và cùng tâm sự với những ám ảnh, linh hồn trong suy nghĩ của mình. Ông sống và làm bạn với những người linh hồn trong tiềm thức của bản thân, ông nói chuyện với quỷ bằng những giọng tiếc nuối. Những vật vô tri như đá, gỗ, cây được Vũ khoác lên một linh hồn, linh hồn như con người, có cảm xúc và được Vũ trò chuyện như các thi nhân.
Thế nhưng Tạ Tỵ còn thấy được sự đơn độc, lẻ loi trong chính con người của Vũ Hoàng Chương. Sự cô đơn ấy bắt nguồn từ suy nghĩ về thực tại, Vũ Hoàng Chương khép mình lại với con người xung quanh và mở lòng với cỏ cây, hoa lá. Vũ Hoàng Chương sinh ra trong thời đại nô lệ nên ông luôn hoài nghi và ám ảnh hiện thực đời sống, ông không tìm được tiếng nói trong cuộc sống vì thế ông dồn nén bao nhiêu nỗi cô đơn vào thơ ca, sự u uất trong tâm hồn của một thi sĩ. Vũ Hoàng Chương trăn trở về cái chết của con người, ông không xem cái chết là sự giải thoát mà ở ông nó là điều kinh khủng, vô cùng sợ hãi mà nói đúng hơn là cái chết đó là sự ảo tưởng của ông. Thơ của Vũ Hoàng chương mang màu sắc và hơi thở của phương Đông trầm mặc. Vũ Hoàng Chương muốn thoát khỏi cái thế giới này chỉ muốn đi sâu vào đời sống tâm linh vì ông đã chán ngán cõi đời, chán ngán cái nhân tình thế thái này.
Còn Vũ Hoàng Chương trong “Thi nhân Việt Nam” qua ngòi bút của nhà phê bình Hoài Thanh là một người từng trải, ông trải qua hết mọi thứ nhưng Hoài Thanh không gọi đó là truỵ lạc mà ông giải thích tất cả cái say mê của Vũ Hoàng Chương chung quy lại để phục vụ cho mục đích làm thơ của mình. Nếu như Vũ Hoàng Chương trong mắt Tạ Tỵ là một người suy tình, in mãi một bóng hình người xưa thì ở Hoài Thanh hiện lên một người chán ghét hôn nhân. Ông Vũ Hoàng Chương dùng một thái độ khinh bỉ đối với hôn nhân vì ông chỉ xem nó là sự ô uế và chỉ là sự chung chọi từ xác thịt lẫn nhau, đối với ông chính hôn nhân là cái phá vỡ bao nhiêu mộng đẹp tuổi hoa niên. Ông vẫn còn mang tư tưởng của Lão Trang. Cả hai nhà phê bình đều khai thác vấn đề tình yêu, hôn nhân và phong cách sáng tác thơ của Vũ Hoàng Chương.
Hoài Thanh và Tạ Tỵ là hai nhà phê bình lớn trong lĩnh vực văn chương. Nếu như Tạ Tỵ nhìn Vũ Hoàng Chương nhạy cảm gắng liền tâm linh vào cuộc sống thì ở Hoài Thanh lại khắc hoạ một Vũ Hoàng Chương mang đậm triết lý Lão Trang, một trong những đặc điểm của người Á Đông. Qua cách hai nhà phê bình khắc hoạ về cuộc đời sự nghiệp của Vũ Hoàng Chương, chúng ta nhận thấy ở ông là sự hoài niệm về cuộc đời, hoài niệm về quá khứ xưa cũ, loay hoay không tìm được hướng đi nên ông buộc phải tìm lại bản ngã của mình bằng ký ức.