Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng hỏi rằng: “Cho đến tận hôm nay, có nhà thơ lục bát nào mà nhân dân thuộc nhiều như Nguyễn Bính chưa?!” Câu hỏi đó chính là một sự khẳng định mà không cần câu trả lời, bởi ai nghe cũng biết chắc câu trả lời chính xác. Cùng tới với bài Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính để hiểu thấu những nét đẹp thi ca Nguyễn Bính và hiểu thêm sức sống mãnh liệt trong lòng bạn đọc muôn đời đến từ đâu.
+ Thơ Nguyễn Bính luôn chất chứa những ý vị sâu sắc, nồng đượm tình quê, chất quê dung dị mà vô cùng gợi cảm, hấp dẫn và thu hút.
+ "Tương tư" là bài thơ điển hình cho tài năng và phong cách của nhà thơ Nguyễn Bính.
- Tương tư trở thành căn bệnh khi chàng trai trót mang trái tim trao gửi vào mối tình đơn phương.
- Lỡ đem lòng thương nên nỗi nhớ da diết khôn nguôi "chín nhớ mười mong".
- Tình yêu đâu chỉ có nhớ, có mong thôi đâu, tình yêu còn là những lần trách móc vô cớ, rất gần mà ngỡ rất xa.
- Lòng chàng trai ngày một thiết tha, trăn trở. Nỗi nhớ ấy qua bao tháng ngày từ hạ sang thu vẫn vẹn nguyên và đong đầy.
- Trái tim này đang bồi hồi, thổn thức vì yêu mà bao nhiêu đêm không ngủ.
- Sử dụng hình ảnh này như một sự hy vọng cho mối tình đơn phương được người đáp trả để nên duyên đôi lứa.
Xem thêm:
Nguyễn Bính - người giữ hồn quê
Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính
Cảm nhận bốn câu thơ cuối bài "Tương tư" - Nguyễn Bính
Trong phong trào Thơ mới, Nguyễn Bính đã tạo ra một dòng riêng. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ánh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ánh hưởng của thơ ca dân gian. Nguyễn Bính là thi sĩ đồng quê. "Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình quê tuyệt vời của Nguyễn Bính" (Tồ Hoài). Bài thơ "Tương tư' tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Bính.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì Nguyễn Bính theo một lối riêng. Có thể coi bài thơ "Chân quê" là tuyên ngôn thơ của Nguyễn Bính:
"Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều".
Ví như cùng viết về nỗi thương nhớ trong tình yêu mà giữa "Tương tư' của Nguyễn Bính và "Tương tư chiều" của Xuân Diệu khác nhau biết mấy! Xuân Diệu thì rất Tây mà Nguyễn Bính thì "chân quê", cả hai đều có sức hấp dẫn riêng.
Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà lặn xuống tan hoà vào không gian của đồng quê bằng thủ pháp nhân hóa như trong ca dao. Hãy nghe mấy lời mở đầu bài "Tương tư:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã. Từng chữ thơ đều có dây mơ rễ má với thơ ca dân gian. Các cụm từ "ngồi nhớ "chín nhớ mười mong" gợi nhớ câu ca dao:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than".
Nguyễn Bính thích lối cụ thể hoá cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
"Một người chín nhớ mười mong một người"
"Một người" đứng ở hai đầu câu thơ, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy thật là hay!
Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất:
"Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
Thanh niên từ Nam chí Bắc đều nhớ những câu thơ này vì đã nói hộ cho họ rất nhiều, thậm chí họ không biết đó là thơ của Nguyền Bính, họ nhớ như nhớ ca dao, họ thốt lên như từ cõi lòng mình. Đó là vinh quang của thi sĩ, vinh quang của Nguyễn Bính.
Nhớ mong đơn phương là "quyền được yêu" của con người, nhưng sao lại trách móc? Tinh yêu phi lí như thế đấy:
"Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này".
Thật là tội nghiệp cho người trách và cũng tội nghiệp cho người bị trách. Nàng "thôn Đông" đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng "thôn Đoài".
Cái "chung" đã không chung được thì thời gian càng đằng đẵng, nỗi chờ mong càng vò võ: ,
"Ngày qua ngày qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".
Lối láy chữ "ngày qua ngày lại..." như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của một thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết "mùa qua mùa lại..." mà phải viết "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng" thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đã đến vàng vọt cả "lá xanh" (hay là tuổi xanh?)
Rồi lại kiếm cớ để mà trách:
"Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đinh,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?"
Tương tư như thế chẳng khác chi chàng trai tương tư trong ca dao "Lá khoai anh ngỡ lá sen, - Bóng trắng anh tưởng bóng đèn anh khâu". Nhưng không phải chỉ có người tình phương Đông mới yêu phi lí như vậy, người tình phương Tây yêu có khác gì. Anh chàng Phê-lít Ác-ve (Félix Arvers) yêu một thiếu phụ đoan trinh, yêu đơn phương, đau đớn và tuyệt vọng trong bài Xon-nê (Sonnet) bất tử:
"... Người nào ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Nào ngờ chân đạp lên trên mối tình..."
Chao ôi, mỗi bước chân lãng đãng của nàng đã giẫm lên mối tình của chàng thi sĩ mà nàng nào có hay!
Hết trách móc (trách yêu thôi) lại kể lể nào nề:
"Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho".
Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có "ai" biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Nhưng từ ai phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ "ai" gợi nhớ những từ "ai" trong ca dao: "Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai". Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng:
"Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?".
Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng Bến và Đò, Hoa và Bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như Bến, Hoa ám chỉ người con gái, biêu tượng động như Đò, Bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại "Bao giờ bến mới gập đò?" Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch! Cho nên cứ trách "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này", rồi "Không sang là chẳng đường sang đã đành", rồi "tình xa xôi". Lại nữa "hoa khuê các" làm sao gặp "bướm giang hồ"! Rõ ràng Nguyễn Bính đã thổi vào Hoa - Bướm của dân dã một chút tình làng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa bó cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút "khó hiểu của thời đại" (Hoài Thanh). Trong thâm tâm, Nguyễn Bính đã cảm nhận được cuộc tình của đôi lứa không thể hoà hợp, gắn bó, bền chặt được.
Kết, bài thơ trở về với giai điệu ban đầu, có thêm một vài biến tấu:
"Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"
Giai điệu ban đầu "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu - cau, nhưng cũng chỉ nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao "đỏ với nhau" được (Miếng trầu với lại quả cau - làm sao cho đỏ với nhau thì làm - Ca dao) thành ra "tương tư'. Mà tương tư đơn phương gọi đúng tên là thất tình. Đúng đấy là bài Thơ Thất tình của Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính là ca sĩ của đồng quê. Trong khi ngọn gió nghệ thuật phương Tây ào ào thổi tới, Nguyễn Bính vẫn một mực giữ lấy chút "hương đồng gió nội" cho thơ minh. Với tài hoa và tâm huyết, với nghệ thuật dân tộc, Nguyễn Bính đã thành công. Thơ Nguyễn Bính thành ra lạ so với trường phái thư lãng mạn đương thời. Sức hấp dẫn của "Tương tư không chỉ là ở chuyện tình yêu lứa đôi mà còn ở tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, với người với cảnh, ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc, ở lối tư duy thơ đậm màu sắc dân gian. Có thể nói hồn quê chính là hồn thơ "Tương tư mà cũng là hồn thơ Nguyễn Bính. "Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn Bính và cũng chưa phân biệt được đâu là chút lòng mộc mạc thiết tha của người làm thơ, đâu là cái hoa hoà hoa sói của chàng trai quê ra tỉnh. Rồi mỗi khi gặp chính trong cuộc sống khốn khó hàng ngày tưởng như chẳng liên quan gì đến những bài thơ quê hương đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại nghĩ ra ý nghĩa sâu thảm của mỗi câu thơ với quê hương" (Tô Hoài).
Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ viết về đề tài khá quen thuộc trong đời sống và văn chương: sự tương tư, tức một trạng thái tình cảm nam nữ khi yêu nhau, hoặc phải xa cách, hoặc không được đáp lại. Nhà thơ lại sáng tác bằng thể thơ cũng rất quen thuộc - lục bát.
Song, để bài thơ có thể sống dài lâu trong lòng bạn đọc không phải là chuyện dễ. Tương tư của Nguyễn Bính vừa có vẻ thân quen như một làn điệu dân ca khiến bao người thuộc lòng. Thậm chí trở thành một bài hát ru em, vừa mang tâm tình mới của thanh niên thời bấy giờ. Nói cách khác, Tương tư cũng như rất nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính trước năm 1945, đậm đà chất dân tộc, trong điệu tâm hồn, cả trong lối diễn đạt, nhưng lại là tiếng thơ của một thời đại mới. Vì thế, khi bình giảng cần biết rằng Tương tư là nỗi nhớ, là tâm trạng của một chàng trai đối với một cô gái. Cô gái ấy vô tình, hay hữu ấy không biết nỗi lòng ấy. Tình cảm của chàng trai rất đỗi tha thiết. Tương tư là một thứ bệnh của tình yêu. Chàng trai ấy đang mang bệnh đó. Anh ta buồn, anh ta nhớ, anh ta thao thức và cả trách móc nữa. nhưng là sự trách móc của một người đang yêu nên cũng rất đáng yêu:
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Khi bình giảng lại lần theo tâm trạng đó. Tuy nhiên, không phải là sự diễn xuôi, kể lại (vì có gì đáng kể đâu) mà để thấy từng cung bậc tình cảm trong trái tim chàng trai đang tương tư.
Tương tư là bài thơ tình yêu, bài thơ diễn tả nỗi tương tư. Thành công của nó ở chỗ bao tâm hồn đã tìm thấy ở đó sự đồng điệu, tiếng thơ. Điều này tưởng chừng bình thường, đơn giản, song thật ra không phải ai cũng làm được. Nhiều bài thơ tuy rất hay, rất nổi tiếng, nhưng người ta nhận ra trước hết đó là nỗi lòng rất đơn chiếc của một người, và nếu có chỉ là tiếng lòng rất người, một bộ phận tương đối hẹp nào đó. Chẳng hạn:
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh sầu khổ
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân.
(Lưu Trọng Lư - Một mùa đông)
Hoặc:
Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng
Mà sầu trong dạ đã mang mang
Tình yêu như bóng trắng hiu quạnh
Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.
(Lưu Trọng Lư - Một chút tình)
Thơ Nguyễn Bính, ở Tương tư, cũng như nhiều bài thơ khác, không phải vậy. Rất đông thanh niên, nhất là những người bình thường, thời bây giờ và sau đó nữa, tìm thấy sự đồng điệu ở thơ ông. Có được như vậy, trước hết là do thơ Nguyễn Bính có nhiều hình ảnh quen thuộc của thế giới ruộng đồng, dân dã (ở bài thơ này là bướm, hoa, thôn Đoài, thôn Đông, đình làng, bến đò, hàng cau, giàn trầu...) Dường như tiếng nói trong thơ Nguyễn Bính được cất lên từ chính thế giới thân thuộc đó, là một phần của thế giới ấy, chứ không là sự vay mượn. Thành ra lối diễn đạt cũng thế. Nó mang dáng vẻ mộc mạc, chân thành, bình dị (Ngày qua ngày lại qua ngày/ Bao giờ bến mới gặp đò?/ Nhà em có một giàn giần..) Và dĩ nhiên, đây là hình thức thể hiện của một ai khác, sâu xa hơn, ở thơ Nguyễn Bính, đó chính là chân quê, hồn quê thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Chính cái tình, cái hồn ấy làm nên sự quen thuộc, gần gũi và thân thiết của thơ Nguyễn Bính đối với bao người Việt Nam, dù ở bất cứ thời đại nào.
Trước Nguyễn Bính 150 năm, Nguyễn Công Trứ thuở "hàn nho" đã có lần viết:
"Tương tư không biết cái làm sao
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào... "
("Tương tư")
Xuân Diệu - Ông chúa thơ tình - người đồng thời với thi sĩ Nguyễn Bính cũng có bài "Tương tư chiều" (Thơ thơ - 1938) nồng nàn thương nhớ:
"Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm".
Năm 1939, Nguyễn Bính viết "Tương tư" in trong tập "Lỡ bước sang ngang” xuất bản tại Hà Nội, năm 1940. Với 20 câu thơ lục bát, Nguyễn Bính đã có một cách nói riêng về nỗi nhớ, nỗi buồn tương tư. Chàng trai đa tình, mơ mộng khắc khoải chờ mong và thương nhớ cô gái "chung làng" với một tình yêu chưa được đáp đền... nên mới tương tư như thế. Nỗi tương tư buồn dịu ấy được đặt vào một khung cảnh bình dị đáng yêu trong hương đồng gió nội thuần khiết, trong sáng như một mối tình dan díu xưa cũ trong bài hát giao duyên thuở nào.
Có yêu lắm nhớ nhiều nên mới tương tư. Yêu lắm nhớ nhiều. mà không được "người tình" đáp lại, không được gặp mặt người yêu... thì mới tương tư, mang nỗi buồn tương tư. "Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều - Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang" ("Truyện Kiều" - Nguyễn Du).
Khổ thơ đầu nói lên nỗi "nhớ", nỗi "mong” của kẻ đang yêu, nỗi nhớ mong đầy ắp trong lòng, đã thành "bệnh" bởi lẽ "tôi yêu nàng":
"Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
"Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
Chữ "tôi" xuất hiện trong bài thơ thật đáng yêu. Thôn Đoài với thôn Đông là nơi nhà "Nàng" và nhà Tôi" đang ở. Cách sử dụng hoán dụ - nhân hóa kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ - vị ngữ “chín nhớ mười mong" làm cho lời thơ trở nên hình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. Nỗi "chín nhớ mười mong một người" không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Yêu nàng tôi tương tư đã thành "bệnh", thật đáng thương,... cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh "bệnh giời" với bệnh “tương tư "của tôi yêu nàng", Nguyễn Bính đã diễn tả một cách hồn nhiên, thi vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Yêu thì mong được gần nhau, mà xa nhau thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều; càng nhớ mong thì càng tương tư. Tương tư là một nét đẹp của tình yêu nên khác gì "Nắng mưa là bệnh của giời"...
Mười hai câu tiếp theo nói lên tâm trạng tương tư "bệnh của tôi yêu nàng". Trước hết là nỗi băn khoăn thắc mắc. Tuy chẳng được ở gần nhau "bên giậu mùng tơi", "bên giàn thiên lí", nhưng tôi với nàng gần gũi biết bao "Hai thôn chung lại một làng". Có mong có nhớ... có đi mà không có lại, nên băn khoăn thắc mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ? Một câu hỏi cất lên nghe thật là thương, thật là buồn:
"Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?".
Đã bao lâu rồi chưa được gặp nàng, nỗi buồn tương tư càng da diết, nôn nao:
"Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".
Ba chữ "ngày" kết hợp với chữ , “qua" một chữ "lại" diễn tả nỗi buồn triền miên dằng dặc. Từ mùa xuân, khi lá xanh nay đã cuối thu "cây lá vàng", thế mà "bên ấy" chẳng sang bên này? Làm sao chẳng mỏi mòn mong nhớ? Làm sao chẳng tàn úa như lá vàng mùa thu? Nguyễn Bính đã học tập cách nói của dân gian lấy cây cỏ sắc màu để diễn tả thời gian li cách. Thời gian tâm lí, thời gian tâm trạng: dằng dặc mong nhớ, triền miên buồn trông - được nói lên một cách rất thơ, rất đậm đà, ý vị.
Thắc mắc rồi trách móc, rồi hờn tủi. Băn khoăn tự hỏi, tự giày vò mình: "Bao rằng", "không... là chăng... đã đành", "nhưng", "có xa xôi mấy...", hỏi để rồi lại băn khoăn, hờn dỗi. Và chỉ biết hỏi mình mà thôi, càng hỏi càng cô đơn lẻ loi, hờn tủi:
"Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?".
"Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?".
Trải qua những "chín nhớ mười mong", hết trách móc hờn đỗi rồi lại trông đợi cầu mong. Thật chân tình, thật chân thành, tha thiết:
"Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?".
Vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) để thể hiện một nỗi ước mong, một khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng ", trở thành "cái chung" của nhiều chàng trai, cô gái khác. Vì thế đã 70 năm qua, tiếng thơ "Tương tư" vẫn được bao thế hệ độc giả trân trọng coi nó như tâm hồn mình, tiếng lòng mình - Có một số người cho rằng câu thơ "Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau" dường như lạc hệ thống, thiếu sự dung dị (?) Chàng trai trong "tương tư" đâu phải là anh trai cày "tát nước đầu đình" mà có thể là một chàng trai đang học trường làng, trường huyện và đã từng đọc "Hồn bướm mơ tiên"... thích mơ mộng. Nguyễn Bính không chỉ làm cho vần thơ mang vẻ đẹp mộc mạc như ca dao mà lại cũng khác ca dao, là ở chỗ ấy.
Ở phần hai bài thơ, chàng trai lúc thì trách móc, lúc thì nhắn hỏi liên tiếp mà "nàng" vẫn hững hờ, biệt tăm. Kẻ thì đa tình mơ mộng... mà đối tượng lại mơ hồ, vô định, nhớ thương mong đợi, có đi mà chẳng bao giờ có lại. Chỉ là chuyện hão huyền, vô vọng vì đó đều mơ hồ, vu vơ. Ở đời vẫn có những mối tình yêu như thế, lãng mạn như thế: "Ai biết tình ai có đậm đà?" (Hàn Mặc Tử). Năm 1912 thi sĩ Tản Đà viết trong bài thơ "Thư trách người tình không quen biết":
"Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ
Trông mây trông nước, nay chờ mai mong".
Và năm 1926, ông còn viết:
"Mong ai mỏi mắt chân trời,
Nhớ ai, đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ".
("Thư trách người tình không quen biết")
Qua đó, ta giới có thể cảm nhận được tình tương tư "một người chín nhớ mười mong một người" trong thơ Nguyễn Bính. Và đó chỉ là yêu vụng dấu thầm mà thôi.
Bốn câu thơ cuối bài nói lên niềm mơ ước muôn đời của lứa đôi. Và ở đây là của "anh". Yêu nhau đâu chỉ có "chín nhớ mười mong", đâu chỉ có tương tư mà còn ước mơ hạnh phúc:
"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phong.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thân Đoài nhớ giầu không thôn nào".
"Có một giàn giầu", "có một hàng cau liên phòng", nhà anh, nhà em mới đều chỉ có "một" nghĩa là còn lẻ loi, đơn chiếc. Anh và em vẫn đôi nơi: Anh ở thôn Đoài, em vẫn ở thôn Đông, vẫn còn xa cách quá chừng, vẫn là một trời mong nhớ: "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông". Anh nhớ em, tưởng như: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?". Hình ảnh ẩn dụ "giầu - cau" dân dã biểu lộ niềm mơ ước: duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứa sắt son, bền chặt. Câu trúc song hành gợi tả mối quan hệ gắn bó của đôi trai gái trong một tình yêu đẹp: nhà tôi và nhà em, thôn Đoài và thôn Đông, trầu và cau. Tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đôi, của trai gái. Nguyễn Bính đã khép lại bài thơ bằng một lối diễn đạt tinh tế, đậm đà, nhiều man mác, bâng khuâng. Mơ ước về trái ngọt hạnh phúc sẽ làm lịm môi, mơ ước về con thuyền tình sẽ cập bến bờ hạnh phúc... đó là mơ ước đẹp rất nhân văn, vần thơ, câu thơ của tác giả "Lỡ bước sang ngang" được tuổi trẻ thời áo trắng yêu thích là vì thế.
"Tương tư" vượt lên thời gian, đã sống trong lòng người, trong trái tim, tâm hồn bao chàng trai, cô gái. Ngôn ngữ và chất thơ dung dị, hồn nhiên, dân dã và không kém phần lãng mạn thơ mộng. Một hệ thống ẩn dụ - ước lệ: thôn Đoài, thôn Đông, bến - đò, hoa - bướm, cau - trầu... - với cách nói ví von bình dị đã tạo nên một không gian nghệ thuật gần gũi, thân quen là làng xóm, quê nhà, là "hồn xưa đất nước". Cái mới trong thơ lục bát của Nguyễn Bính là chất biểu cảm nồng nàn, là niềm khao khát về tình yêu hạnh phúc, là cái tôi trữ tình, là "của tôi yêu nàng", là cảm xúc của tuổi trẻ bấy lâu nay.
Trong "Tương tư" có mong nhớ và buồn, có trách móc và giận hờn, nhưng chủ yếu là vươn tới, là mơ ước, khát khao để anh và em, để cau thôn Đoài và giầu không thôn Đông thắm lại, son sắt, thủy chung. Mọi mơ ước đều đẹp. Mơ ước về tình duyên hạnh phúc lại càng đẹp. "Tương tư" thể hiện hồn thơ Nguyễn Bính: Lãng mạn mà chân quê, man mác hương đồng gió nội một thời quá vãng.
Dàn ý bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
1. Mở bài
Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bính và bài thơ Tương tư:+ Thơ Nguyễn Bính luôn chất chứa những ý vị sâu sắc, nồng đượm tình quê, chất quê dung dị mà vô cùng gợi cảm, hấp dẫn và thu hút.
+ "Tương tư" là bài thơ điển hình cho tài năng và phong cách của nhà thơ Nguyễn Bính.
2. Thân bài
- "Tương tư" là mối tình đơn phương của một chàng trai thôn Đoài đem lòng mến người con gái thôn Đông.- Tương tư trở thành căn bệnh khi chàng trai trót mang trái tim trao gửi vào mối tình đơn phương.
- Lỡ đem lòng thương nên nỗi nhớ da diết khôn nguôi "chín nhớ mười mong".
- Tình yêu đâu chỉ có nhớ, có mong thôi đâu, tình yêu còn là những lần trách móc vô cớ, rất gần mà ngỡ rất xa.
- Lòng chàng trai ngày một thiết tha, trăn trở. Nỗi nhớ ấy qua bao tháng ngày từ hạ sang thu vẫn vẹn nguyên và đong đầy.
- Trái tim này đang bồi hồi, thổn thức vì yêu mà bao nhiêu đêm không ngủ.
- Sử dụng hình ảnh này như một sự hy vọng cho mối tình đơn phương được người đáp trả để nên duyên đôi lứa.
3. Kết bài
- Nêu cảm nghĩ về bài thơ: Đến với "Tương tư" nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung, tâm hồn ta như được thành lọc, được trở về với vẻ đẹp chân quê đằm thắm những ân tình, cảm xúc dạt dào, dịu dàng như dòng sữa mẹ khiến ta thêm nâng niu, thêm trân trọng những vẻ đẹp của tình quê, của hương đồng gió nội.Xem thêm:
Nguyễn Bính - người giữ hồn quê
Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính
Cảm nhận bốn câu thơ cuối bài "Tương tư" - Nguyễn Bính
Bài văn mẫu Bình giảng Tương tư - Nguyễn Bính
Trong phong trào Thơ mới, Nguyễn Bính đã tạo ra một dòng riêng. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ánh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ánh hưởng của thơ ca dân gian. Nguyễn Bính là thi sĩ đồng quê. "Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình quê tuyệt vời của Nguyễn Bính" (Tồ Hoài). Bài thơ "Tương tư' tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Bính.Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì Nguyễn Bính theo một lối riêng. Có thể coi bài thơ "Chân quê" là tuyên ngôn thơ của Nguyễn Bính:
"Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều".
Ví như cùng viết về nỗi thương nhớ trong tình yêu mà giữa "Tương tư' của Nguyễn Bính và "Tương tư chiều" của Xuân Diệu khác nhau biết mấy! Xuân Diệu thì rất Tây mà Nguyễn Bính thì "chân quê", cả hai đều có sức hấp dẫn riêng.
Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà lặn xuống tan hoà vào không gian của đồng quê bằng thủ pháp nhân hóa như trong ca dao. Hãy nghe mấy lời mở đầu bài "Tương tư:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã. Từng chữ thơ đều có dây mơ rễ má với thơ ca dân gian. Các cụm từ "ngồi nhớ "chín nhớ mười mong" gợi nhớ câu ca dao:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than".
Nguyễn Bính thích lối cụ thể hoá cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
"Một người chín nhớ mười mong một người"
"Một người" đứng ở hai đầu câu thơ, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy thật là hay!
Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất:
"Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
Thanh niên từ Nam chí Bắc đều nhớ những câu thơ này vì đã nói hộ cho họ rất nhiều, thậm chí họ không biết đó là thơ của Nguyền Bính, họ nhớ như nhớ ca dao, họ thốt lên như từ cõi lòng mình. Đó là vinh quang của thi sĩ, vinh quang của Nguyễn Bính.
Nhớ mong đơn phương là "quyền được yêu" của con người, nhưng sao lại trách móc? Tinh yêu phi lí như thế đấy:
"Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này".
Thật là tội nghiệp cho người trách và cũng tội nghiệp cho người bị trách. Nàng "thôn Đông" đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng "thôn Đoài".
Cái "chung" đã không chung được thì thời gian càng đằng đẵng, nỗi chờ mong càng vò võ: ,
"Ngày qua ngày qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".
Lối láy chữ "ngày qua ngày lại..." như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của một thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết "mùa qua mùa lại..." mà phải viết "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng" thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đã đến vàng vọt cả "lá xanh" (hay là tuổi xanh?)
Rồi lại kiếm cớ để mà trách:
"Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đinh,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?"
Tương tư như thế chẳng khác chi chàng trai tương tư trong ca dao "Lá khoai anh ngỡ lá sen, - Bóng trắng anh tưởng bóng đèn anh khâu". Nhưng không phải chỉ có người tình phương Đông mới yêu phi lí như vậy, người tình phương Tây yêu có khác gì. Anh chàng Phê-lít Ác-ve (Félix Arvers) yêu một thiếu phụ đoan trinh, yêu đơn phương, đau đớn và tuyệt vọng trong bài Xon-nê (Sonnet) bất tử:
"... Người nào ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Nào ngờ chân đạp lên trên mối tình..."
Chao ôi, mỗi bước chân lãng đãng của nàng đã giẫm lên mối tình của chàng thi sĩ mà nàng nào có hay!
Hết trách móc (trách yêu thôi) lại kể lể nào nề:
"Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho".
Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có "ai" biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Nhưng từ ai phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ "ai" gợi nhớ những từ "ai" trong ca dao: "Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai". Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng:
"Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?".
Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng Bến và Đò, Hoa và Bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như Bến, Hoa ám chỉ người con gái, biêu tượng động như Đò, Bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại "Bao giờ bến mới gập đò?" Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch! Cho nên cứ trách "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này", rồi "Không sang là chẳng đường sang đã đành", rồi "tình xa xôi". Lại nữa "hoa khuê các" làm sao gặp "bướm giang hồ"! Rõ ràng Nguyễn Bính đã thổi vào Hoa - Bướm của dân dã một chút tình làng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa bó cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút "khó hiểu của thời đại" (Hoài Thanh). Trong thâm tâm, Nguyễn Bính đã cảm nhận được cuộc tình của đôi lứa không thể hoà hợp, gắn bó, bền chặt được.
Kết, bài thơ trở về với giai điệu ban đầu, có thêm một vài biến tấu:
"Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"
Giai điệu ban đầu "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu - cau, nhưng cũng chỉ nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao "đỏ với nhau" được (Miếng trầu với lại quả cau - làm sao cho đỏ với nhau thì làm - Ca dao) thành ra "tương tư'. Mà tương tư đơn phương gọi đúng tên là thất tình. Đúng đấy là bài Thơ Thất tình của Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính là ca sĩ của đồng quê. Trong khi ngọn gió nghệ thuật phương Tây ào ào thổi tới, Nguyễn Bính vẫn một mực giữ lấy chút "hương đồng gió nội" cho thơ minh. Với tài hoa và tâm huyết, với nghệ thuật dân tộc, Nguyễn Bính đã thành công. Thơ Nguyễn Bính thành ra lạ so với trường phái thư lãng mạn đương thời. Sức hấp dẫn của "Tương tư không chỉ là ở chuyện tình yêu lứa đôi mà còn ở tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, với người với cảnh, ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc, ở lối tư duy thơ đậm màu sắc dân gian. Có thể nói hồn quê chính là hồn thơ "Tương tư mà cũng là hồn thơ Nguyễn Bính. "Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn Bính và cũng chưa phân biệt được đâu là chút lòng mộc mạc thiết tha của người làm thơ, đâu là cái hoa hoà hoa sói của chàng trai quê ra tỉnh. Rồi mỗi khi gặp chính trong cuộc sống khốn khó hàng ngày tưởng như chẳng liên quan gì đến những bài thơ quê hương đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại nghĩ ra ý nghĩa sâu thảm của mỗi câu thơ với quê hương" (Tô Hoài).
Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính mẫu 2
Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ viết về đề tài khá quen thuộc trong đời sống và văn chương: sự tương tư, tức một trạng thái tình cảm nam nữ khi yêu nhau, hoặc phải xa cách, hoặc không được đáp lại. Nhà thơ lại sáng tác bằng thể thơ cũng rất quen thuộc - lục bát.Song, để bài thơ có thể sống dài lâu trong lòng bạn đọc không phải là chuyện dễ. Tương tư của Nguyễn Bính vừa có vẻ thân quen như một làn điệu dân ca khiến bao người thuộc lòng. Thậm chí trở thành một bài hát ru em, vừa mang tâm tình mới của thanh niên thời bấy giờ. Nói cách khác, Tương tư cũng như rất nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính trước năm 1945, đậm đà chất dân tộc, trong điệu tâm hồn, cả trong lối diễn đạt, nhưng lại là tiếng thơ của một thời đại mới. Vì thế, khi bình giảng cần biết rằng Tương tư là nỗi nhớ, là tâm trạng của một chàng trai đối với một cô gái. Cô gái ấy vô tình, hay hữu ấy không biết nỗi lòng ấy. Tình cảm của chàng trai rất đỗi tha thiết. Tương tư là một thứ bệnh của tình yêu. Chàng trai ấy đang mang bệnh đó. Anh ta buồn, anh ta nhớ, anh ta thao thức và cả trách móc nữa. nhưng là sự trách móc của một người đang yêu nên cũng rất đáng yêu:
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Khi bình giảng lại lần theo tâm trạng đó. Tuy nhiên, không phải là sự diễn xuôi, kể lại (vì có gì đáng kể đâu) mà để thấy từng cung bậc tình cảm trong trái tim chàng trai đang tương tư.
Tương tư là bài thơ tình yêu, bài thơ diễn tả nỗi tương tư. Thành công của nó ở chỗ bao tâm hồn đã tìm thấy ở đó sự đồng điệu, tiếng thơ. Điều này tưởng chừng bình thường, đơn giản, song thật ra không phải ai cũng làm được. Nhiều bài thơ tuy rất hay, rất nổi tiếng, nhưng người ta nhận ra trước hết đó là nỗi lòng rất đơn chiếc của một người, và nếu có chỉ là tiếng lòng rất người, một bộ phận tương đối hẹp nào đó. Chẳng hạn:
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh sầu khổ
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân.
(Lưu Trọng Lư - Một mùa đông)
Hoặc:
Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng
Mà sầu trong dạ đã mang mang
Tình yêu như bóng trắng hiu quạnh
Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.
(Lưu Trọng Lư - Một chút tình)
Thơ Nguyễn Bính, ở Tương tư, cũng như nhiều bài thơ khác, không phải vậy. Rất đông thanh niên, nhất là những người bình thường, thời bây giờ và sau đó nữa, tìm thấy sự đồng điệu ở thơ ông. Có được như vậy, trước hết là do thơ Nguyễn Bính có nhiều hình ảnh quen thuộc của thế giới ruộng đồng, dân dã (ở bài thơ này là bướm, hoa, thôn Đoài, thôn Đông, đình làng, bến đò, hàng cau, giàn trầu...) Dường như tiếng nói trong thơ Nguyễn Bính được cất lên từ chính thế giới thân thuộc đó, là một phần của thế giới ấy, chứ không là sự vay mượn. Thành ra lối diễn đạt cũng thế. Nó mang dáng vẻ mộc mạc, chân thành, bình dị (Ngày qua ngày lại qua ngày/ Bao giờ bến mới gặp đò?/ Nhà em có một giàn giần..) Và dĩ nhiên, đây là hình thức thể hiện của một ai khác, sâu xa hơn, ở thơ Nguyễn Bính, đó chính là chân quê, hồn quê thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Chính cái tình, cái hồn ấy làm nên sự quen thuộc, gần gũi và thân thiết của thơ Nguyễn Bính đối với bao người Việt Nam, dù ở bất cứ thời đại nào.
Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính mẫu 3
Trước Nguyễn Bính 150 năm, Nguyễn Công Trứ thuở "hàn nho" đã có lần viết:"Tương tư không biết cái làm sao
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào... "
("Tương tư")
Xuân Diệu - Ông chúa thơ tình - người đồng thời với thi sĩ Nguyễn Bính cũng có bài "Tương tư chiều" (Thơ thơ - 1938) nồng nàn thương nhớ:
"Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm".
Năm 1939, Nguyễn Bính viết "Tương tư" in trong tập "Lỡ bước sang ngang” xuất bản tại Hà Nội, năm 1940. Với 20 câu thơ lục bát, Nguyễn Bính đã có một cách nói riêng về nỗi nhớ, nỗi buồn tương tư. Chàng trai đa tình, mơ mộng khắc khoải chờ mong và thương nhớ cô gái "chung làng" với một tình yêu chưa được đáp đền... nên mới tương tư như thế. Nỗi tương tư buồn dịu ấy được đặt vào một khung cảnh bình dị đáng yêu trong hương đồng gió nội thuần khiết, trong sáng như một mối tình dan díu xưa cũ trong bài hát giao duyên thuở nào.
Có yêu lắm nhớ nhiều nên mới tương tư. Yêu lắm nhớ nhiều. mà không được "người tình" đáp lại, không được gặp mặt người yêu... thì mới tương tư, mang nỗi buồn tương tư. "Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều - Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang" ("Truyện Kiều" - Nguyễn Du).
Khổ thơ đầu nói lên nỗi "nhớ", nỗi "mong” của kẻ đang yêu, nỗi nhớ mong đầy ắp trong lòng, đã thành "bệnh" bởi lẽ "tôi yêu nàng":
"Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
"Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
Chữ "tôi" xuất hiện trong bài thơ thật đáng yêu. Thôn Đoài với thôn Đông là nơi nhà "Nàng" và nhà Tôi" đang ở. Cách sử dụng hoán dụ - nhân hóa kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ - vị ngữ “chín nhớ mười mong" làm cho lời thơ trở nên hình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. Nỗi "chín nhớ mười mong một người" không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Yêu nàng tôi tương tư đã thành "bệnh", thật đáng thương,... cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh "bệnh giời" với bệnh “tương tư "của tôi yêu nàng", Nguyễn Bính đã diễn tả một cách hồn nhiên, thi vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Yêu thì mong được gần nhau, mà xa nhau thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều; càng nhớ mong thì càng tương tư. Tương tư là một nét đẹp của tình yêu nên khác gì "Nắng mưa là bệnh của giời"...
Mười hai câu tiếp theo nói lên tâm trạng tương tư "bệnh của tôi yêu nàng". Trước hết là nỗi băn khoăn thắc mắc. Tuy chẳng được ở gần nhau "bên giậu mùng tơi", "bên giàn thiên lí", nhưng tôi với nàng gần gũi biết bao "Hai thôn chung lại một làng". Có mong có nhớ... có đi mà không có lại, nên băn khoăn thắc mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ? Một câu hỏi cất lên nghe thật là thương, thật là buồn:
"Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?".
Đã bao lâu rồi chưa được gặp nàng, nỗi buồn tương tư càng da diết, nôn nao:
"Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".
Ba chữ "ngày" kết hợp với chữ , “qua" một chữ "lại" diễn tả nỗi buồn triền miên dằng dặc. Từ mùa xuân, khi lá xanh nay đã cuối thu "cây lá vàng", thế mà "bên ấy" chẳng sang bên này? Làm sao chẳng mỏi mòn mong nhớ? Làm sao chẳng tàn úa như lá vàng mùa thu? Nguyễn Bính đã học tập cách nói của dân gian lấy cây cỏ sắc màu để diễn tả thời gian li cách. Thời gian tâm lí, thời gian tâm trạng: dằng dặc mong nhớ, triền miên buồn trông - được nói lên một cách rất thơ, rất đậm đà, ý vị.
Thắc mắc rồi trách móc, rồi hờn tủi. Băn khoăn tự hỏi, tự giày vò mình: "Bao rằng", "không... là chăng... đã đành", "nhưng", "có xa xôi mấy...", hỏi để rồi lại băn khoăn, hờn dỗi. Và chỉ biết hỏi mình mà thôi, càng hỏi càng cô đơn lẻ loi, hờn tủi:
"Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?".
"Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?".
Trải qua những "chín nhớ mười mong", hết trách móc hờn đỗi rồi lại trông đợi cầu mong. Thật chân tình, thật chân thành, tha thiết:
"Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?".
Vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) để thể hiện một nỗi ước mong, một khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng ", trở thành "cái chung" của nhiều chàng trai, cô gái khác. Vì thế đã 70 năm qua, tiếng thơ "Tương tư" vẫn được bao thế hệ độc giả trân trọng coi nó như tâm hồn mình, tiếng lòng mình - Có một số người cho rằng câu thơ "Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau" dường như lạc hệ thống, thiếu sự dung dị (?) Chàng trai trong "tương tư" đâu phải là anh trai cày "tát nước đầu đình" mà có thể là một chàng trai đang học trường làng, trường huyện và đã từng đọc "Hồn bướm mơ tiên"... thích mơ mộng. Nguyễn Bính không chỉ làm cho vần thơ mang vẻ đẹp mộc mạc như ca dao mà lại cũng khác ca dao, là ở chỗ ấy.
Ở phần hai bài thơ, chàng trai lúc thì trách móc, lúc thì nhắn hỏi liên tiếp mà "nàng" vẫn hững hờ, biệt tăm. Kẻ thì đa tình mơ mộng... mà đối tượng lại mơ hồ, vô định, nhớ thương mong đợi, có đi mà chẳng bao giờ có lại. Chỉ là chuyện hão huyền, vô vọng vì đó đều mơ hồ, vu vơ. Ở đời vẫn có những mối tình yêu như thế, lãng mạn như thế: "Ai biết tình ai có đậm đà?" (Hàn Mặc Tử). Năm 1912 thi sĩ Tản Đà viết trong bài thơ "Thư trách người tình không quen biết":
"Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ
Trông mây trông nước, nay chờ mai mong".
Và năm 1926, ông còn viết:
"Mong ai mỏi mắt chân trời,
Nhớ ai, đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ".
("Thư trách người tình không quen biết")
Qua đó, ta giới có thể cảm nhận được tình tương tư "một người chín nhớ mười mong một người" trong thơ Nguyễn Bính. Và đó chỉ là yêu vụng dấu thầm mà thôi.
Bốn câu thơ cuối bài nói lên niềm mơ ước muôn đời của lứa đôi. Và ở đây là của "anh". Yêu nhau đâu chỉ có "chín nhớ mười mong", đâu chỉ có tương tư mà còn ước mơ hạnh phúc:
"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phong.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thân Đoài nhớ giầu không thôn nào".
"Có một giàn giầu", "có một hàng cau liên phòng", nhà anh, nhà em mới đều chỉ có "một" nghĩa là còn lẻ loi, đơn chiếc. Anh và em vẫn đôi nơi: Anh ở thôn Đoài, em vẫn ở thôn Đông, vẫn còn xa cách quá chừng, vẫn là một trời mong nhớ: "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông". Anh nhớ em, tưởng như: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?". Hình ảnh ẩn dụ "giầu - cau" dân dã biểu lộ niềm mơ ước: duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứa sắt son, bền chặt. Câu trúc song hành gợi tả mối quan hệ gắn bó của đôi trai gái trong một tình yêu đẹp: nhà tôi và nhà em, thôn Đoài và thôn Đông, trầu và cau. Tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đôi, của trai gái. Nguyễn Bính đã khép lại bài thơ bằng một lối diễn đạt tinh tế, đậm đà, nhiều man mác, bâng khuâng. Mơ ước về trái ngọt hạnh phúc sẽ làm lịm môi, mơ ước về con thuyền tình sẽ cập bến bờ hạnh phúc... đó là mơ ước đẹp rất nhân văn, vần thơ, câu thơ của tác giả "Lỡ bước sang ngang" được tuổi trẻ thời áo trắng yêu thích là vì thế.
"Tương tư" vượt lên thời gian, đã sống trong lòng người, trong trái tim, tâm hồn bao chàng trai, cô gái. Ngôn ngữ và chất thơ dung dị, hồn nhiên, dân dã và không kém phần lãng mạn thơ mộng. Một hệ thống ẩn dụ - ước lệ: thôn Đoài, thôn Đông, bến - đò, hoa - bướm, cau - trầu... - với cách nói ví von bình dị đã tạo nên một không gian nghệ thuật gần gũi, thân quen là làng xóm, quê nhà, là "hồn xưa đất nước". Cái mới trong thơ lục bát của Nguyễn Bính là chất biểu cảm nồng nàn, là niềm khao khát về tình yêu hạnh phúc, là cái tôi trữ tình, là "của tôi yêu nàng", là cảm xúc của tuổi trẻ bấy lâu nay.
Trong "Tương tư" có mong nhớ và buồn, có trách móc và giận hờn, nhưng chủ yếu là vươn tới, là mơ ước, khát khao để anh và em, để cau thôn Đoài và giầu không thôn Đông thắm lại, son sắt, thủy chung. Mọi mơ ước đều đẹp. Mơ ước về tình duyên hạnh phúc lại càng đẹp. "Tương tư" thể hiện hồn thơ Nguyễn Bính: Lãng mạn mà chân quê, man mác hương đồng gió nội một thời quá vãng.