Thể loại: giả tưởng, kinh dị
Văn án:
Tiếng chim rừng vang vọng trong núi rừng, cả nhóm người cầm cây đèn đi lên núi, cẩn trọng bước từng bước một. Nửa đêm canh ba, những người đó đến núi Tuyết để làm gì? Họ nghe nói trên đỉnh núi của phủ chúa Thượng có cô chúa Tuyết Chi tinh thông thần pháp, những nỗi sợ kì bí trong lòng đều đến cầu giúp. Thần tựa núi, núi tựa Cô, bất cứ kẻ nào xâm phạm đến vùng châu Giang đều phải cúi đầu nhận tội.
Gió đêm lạnh lùng, rừng cây bạt ngàn, trong cả vùng đất rộng lớn này liệu còn đang giấu kín bí mật gì đây? Viên ngọc đỏ trên người cô chúa là thứ bất kì bọn yêu ma nào cũng muốn có, bởi quyền lực của thế giới huyền bí kia, không có kẻ nào không khát vọng.
Tiếng gió rừng đại ngàn vang dội, tiếng cồng chiêng ngân dài trong không gian. Bỗng chốc nằm mộng, tiếng trẻ con khóc réo rắt đứt từng hơi một, chợt nàng tỉnh giấc...tự hỏi bản thân rốt cuộc là ai?
Chờ đến cuối con đường, Tuyết Chi liệu có thể đứng vững trên phủ chúa Thượng bảo vệ được châu Giang và tìm ra bí ẩn của lời nguyền hơn một trăm năm trước không ? Sau tất cả, nàng sẽ chọn người mình yêu hay chọn cả vùng đất này?
Nàng không biết rằng mỗi bước đi của mình, thật ra là được một thế lực nào đó sắp xếp hết thảy!
Phủ Thượng chính giữa hoa sương
Cô Tuyết cười khẽ, tay ngang đỉnh đầu
Sơn đăng dốc núi trùng trùng
Con cầu con khấn cô ngồi cô trông.
Lưu ý: truyện là thế giới giả tưởng, tác giả lấy cảm hứng từ núi rừng Tây Bắc đại ngàn để truyền tải cho nhân vật thêm gần gũi đặc sắc. Mọi hành động trong tác phẩm đều được hư cấu tạo thành, tuyệt đối không nên học theo. Nếu cần biết chính xác thông tin, mời tra tìm các tài liệu chính gốc.
Chương 1:
“Hộc, hộc, hộc”.
Tiếng thở hắt dồn dập bên mang tai. Trong đêm khuya vắng lặng lại vang lên những âm thanh kì lạ, chẳng phải là tiếng chim cú gáy, tiếng sói tru hay tiếng kêu râm ran của một loài côn trùng nào đó.
Kẻ nào dám lên rừng vào nửa đêm trên núi Tuyết? Chắc chắn hắn ta chưa nghe về truyền thuyết cô chúa Thượng trên rừng, nếu đêm trăng đến gõ cửa, gõ ba lần là ma, gõ bảy lần là quỷ, gõ chín lần mới là người. Ngoài đêm trăm rằm hàng tháng, cửa rừng phong kín không cho kẻ nào dám bén mảng lên tới nơi đây.
Nhưng nửa đêm nửa hôm, người ta lên núi Tuyết làm gì? Ắt hẳn là việc cần gấp, nếu Xa lí, Châu sai không giải quyết được, chắc hẳn phải là một việc rất đau đầu?
Bóng dáng người đi trên núi vội vàng mà run rẩy. Trời đêm tháng tư đã ấm hơn mùa đông rất nhiều nhưng với đồi núi dốc thế này, người nào người nấy vã cả mồ hôi chảy dọc xuống má. Dưới ánh đèn lồng mờ mờ, xem chừng nhận ra đó là hai nam một nữ. Bỗng nhiên, từ trong ba người có tiếng nói run sợ vang lên:
“Á, hai người nhìn xem.”
Giọng của người đàn ông trẻ bật thốt vì sợ hãi nên âm giọng cao vút, tức thì trong rừng sâu thẳm vang lên tiếng chim Kiền vang dài.
“Suỵt”.
Hai người còn lại ra dấu tay làm hiệu im lặng, người đàn ông kia mới ý thức được sự lỗ mãng của mình cả người run cầm cập, trên mặt xanh lét, dưới ánh đèn leo lắt cùng màn đêm mịt mù, trông hắn ta như bị rút mất máu.
Không gian im lìm đến đáng sợ, ba người cùng tựa lưng vào gốc cây bồ đàn nghỉ ngơi. Sương đêm lạnh lẽo thấm đẫm vào vạt áo, vào da thịt rét căm căm, trái tim mỗi người đều đập thình thịch như có ai đe dọa. Chờ khoảng một khắc sau thì trong rừng không còn tiếng kêu vang vọng nữa, ba người mới dám cất bước đi tiếp.
Đường núi gập ghềnh, thỉnh thoảng có rễ cây rừng ngáng chân, những hòn đá tảng đầy góc cạnh nằm rải rác dưới đường đi. Dù đã chuẩn bị da trâu làm giày thật chắc nhưng cả ba người cũng khó tránh bị xây xước vài phần. Cuối cùng, khi ánh trăng đã ló dạng sau vùng rừng um tùm, mặt trăng màu vàng cam sáng tỏ soi từng bước chân kẻ đi rừng, ba người mới thôi hết lo sợ vì cảnh trước mắt.
Trước mặt họ, một con đường đầy đá cuội nằm gọn gàng trải chân người đi. Hai bên đều có loài hoa thơm tỏa ra khắp không gian, yên tĩnh lắng nghe còn cảm nhận được tiếng suối chảy róc rách, rất nhỏ, rất khẽ, rất tinh tế uốn lượn. Dường như đã đạt được mục đích nên ba người phấn chấn hẳn, rảo bước nhanh đi hết đoạn đường trải đá.
Cuối con đường là nơi họ cần tìm đến, ngẩng đầu lên, bờ tường dài qua ngang đầu chẳng thể nhìn thấy bên trong. Gió lạnh bên sườn núi thổi ngang làm cả ba rùng mình, cố gắng gõ chín tiếng bên cửa gỗ lim để thông báo với người gác cổng.
Tiếng chim lục cục ngân dài như đang ngái ngủ, cành cây bên cạnh cũng rung rinh theo. Xuyên qua tán lá, vầng trăng tròn như chia thành nhiều mảnh rời rạc chẳng rõ. Trăng đêm đậm màu, người ngoài cửa không thể đứng đợi lâu!
Chốc lát đã có tiếng mở cửa kẽo kẹt, một cái bóng màu đen ra mở cửa, ánh đèn hai bên cửa tối quá nên chẳng rõ khuôn mặt hoặc giả là người kia đã trùm kín bằng một chiếc áo choàng đen nên chỉ đoán rằng đó là một người đàn ông trẻ. Ba người không dám nói nhiều, cẩn trọng đi theo người đàn ông vào bên trong.
Cả bốn người cứ đi thẳng đến căn nhà phía trước, một người len lén ngẩng đầu lên quan sát. Chỉ thấy trước mắt là dãy nhà san sát nối liền nhau, mỗi nhà cách nhau chừng vài thước, dưới nền móng là lớp đá được chạm khắc hình các con muông thú. Chính giữa là căn nhà lớn nhất, ắt hẳn là nhà Cái để hội họp, lúc này nơi ấy đã sáng trưng vì đèn dầu để treo khắp trong các hốc tường.
Nhưng kì lạ là cả một viện to lớn thế này cũng không có bóng người lạ nào ngoài người đàn ông bí ẩn dẫn đường trước mắt. Nửa đêm canh ba, gió thổi làm lồng đèn chập chờn lay động, nếu chẳng phải là người vững dạ hoặc tin tưởng thần Thượng không có yêu ma thì chẳng dám bén mảng đến chân núi Tuyết đêm hôm thế này.
Cuối cùng cũng đến cửa nhà chính, cả bốn người bước lên bậc thang lát đá. Lại hồi hộp đứng chờ ở ngoài cửa chờ cô gọi vào. Lần này, người đàn ông trùm áo choàng màu đen mới lên tiếng:
Bấy giờ ba người mới nhận ra người đàn ông này đến độ chừng trung niên, chẳng dám để người đàn ông chờ lâu, một người đàn ông trong nhóm nói trước:
Ý người đàn ông chỉ mình và người đàn ông kia. Lúc ấy, người đàn ông dẫn đường mới ngẩng mặt lên đăm đăm nhìn ba người. Tức thì cả ba người đều run rẩy sợ hãi, bởi lẽ trên khuôn mặt người kia có một vết sẹo dọc ngang mặt ghê rợn, dưới ánh đèn leo lắt càng thêm kinh dị, rùng mình.
Ra là còn có một chái hông bên phải để ngồi tạm. Cô gái kéo chặt vạt áo khoác kín người rồi lủi thủi đi sang hướng chỉ dẫn, còn hai người đàn ông kia mở cửa đi vào.
Cánh cửa gỗ lim mở ra, chiếc chuông gió bằng ngà voi leng keng lay động. Hai người bước vào ba bước thì có tiếng đóng cửa ở ngoài, chuông gió cũng ngừng lại, nhẹ nhàng va đập khe khẽ rồi dừng hẳn. Hai người nhìn nhau rồi lại nhìn về phía chính điện, bóng ba người phụ nữ sau tấm rèm nưa. Họ lờ mờ nhận ra, người phụ nữ ngồi trên bậc ghế cao kia hơn hẳn chắc chắn là cô Thượng, hai người ngồi thấp hơn một bậc chính là thần Sâm và thần Ngưu.
Hai người bước đến ngồi trên chiếc chiếu hoa trải sẵn trước sàn, quỳ xuống, vấn rằng:
Dừng một lát như để bề trên vừa kịp nghe tới, Mã Quang Tự quỳ bên trái đeo một chiếc vòng bạc trên cổ, đầu đội mũ đen, mặt đầy vết rám đen mở lời trước.
Sau rèm nưa, khẽ có tiếng động. Chỉ thấy người con gái ngồi trên ghế cao khẽ ra hiệu cho người bên cạnh, tiếng động chợt im lại. Lúc này Mã Quang Tự không dám nói tiếp, trên khuôn mặt xanh lét tái bợt. Người quỳ bên cạnh là Phèng A Sử phải cắn răng tiếp lời.
Phèng A Sử kể lại chi tiết việc hôm ấy. Ngày ấy sau khi trở về nhà, cả hai người chia đôi số bạc ăn mừng một bữa lớn. Thế mà chẳng rõ vì sao mấy hôm sau, con cái hai nhà đều bắt đầu nổi rôm sẩy, tìm thầy lang cắt lá uống cũng chẳng khỏi mà thêm sốt hơn. Chẳng rõ là bệnh gì, hai người mới bắt đầu nhớ đến con trâu đá bán đi, có lẽ nào phạm phải điều cấm gì nên mới thế?
Mấy ngày chạy vạy cúng ma, cúng rừng cũng không khỏi, thuốc bao nhiêu cũng chẳng chịu dứt. Vợ của A Sử bắt đầu nổi lên những mụn đỏ ngứa ngáy, đang ở nhà phát điên phát cuồng, thần trí mơ hồ gặp ai cũng không nhận ra, hai đứa bé kia thì càng nghiêm trọng, những vết thương bắt đầu lan từ ngựa, bụng rồi khắp tay chân. Bấy giờ lâm vào cảnh túng quẫn, đợi mãi đến ngày rằm lên núi Tuyết để xin cô thuốc, chỉ mong mọi chuyện có thể cứu vãn được.
Cả hai người đàn ông đều chừng chực nước mắt, sống mũi cay xè đi vì sai lầm dại dột. Thầy lang nói, nói rằng con của họ đã bị thần rừng cho lời nguyện, chỉ còn cách vứt lên rừng cho sói ăn thì mới hết nạn. Thế nhưng họ biết là do lỗi tại mình nên mới gặp cảnh này, chỉ sợ không chỉ vợ con mà đến cả bản thân cũng chẳng sống nổi.
Người ngồi sau rèm tựa như đang ngẫm ngợi, đôi môi đỏ hơi mím, trên đầu đội một chiếc mũ miện đính đá, những sợi ngọc màu trắng che kín đi vầng trán, chẳng ai đoán được gương mặt ấy là như thế nào.
Thần Sâm ngồi bên trái ngẩng đầu nhìn cô Thượng, người ấy khẽ gật đầu, lúc này thần Sâm mới bảo:
Tức thì, Mã Quang Tự vội trả lời:
Thần Sâm nhíu mày, hỏi tiếp:
Mã Quang Tự cố gắng nhớ lại nửa tháng trước, khi mà lần đầu gặp ông chủ kì lạ này. Vì người ta đồn rằng cần bán vật quý hiếm gì thì cứ luồn lách qua cửa ngõ này nên hắn chẳng mảy may gì tìm hiểu. Lão Lang cũng chừng bảy mươi, dáng người gầy gò, lưng có dấu hiệu hơi gù. Khuôn mặt chít khăn chỉ lộ ra đôi mắt màu xám vẩn đục. Lúc lão nhìn thấy viên đá đó tròng mắt chợt đảo, vội đưa ra giá năm mươi quan tiền. Thế mà quay đi quay lại, lúc cả gia đình gặp chuyện, Tự có đi qua sườn núi phía Đông, cửa vẫn đóng kín chỉ thò một lỗ nhỏ ra ngoài. Tự và A Sử đi vào, trong phòng chỉ có nghe tiếng giã thuốc đều đều trong phòng và người bán kia thì xua tay, lắc đầu như chẳng nhận ra điều gì.
Tức mình, Tự và A Sử đòi lại con trâu đó thì bị lão Lang chửi cho một trận, đòi lại năm mươi quan tiền. Nhưng cả hai đã tiêu đi một nửa, vay chạy cũng chẳng được mà người nhà thì càng lúc càng nguy.
Thanh Sơn ngồi nghe thật lâu, nghe được cả tiếng chim rừng gáy đêm ồn ào bên sườn núi. Quả thật việc này nhỏ thì chẳng nhỏ, lớn cũng chẳng lớn, con trâu đá kia rốt cuộc là thứ gì mà để lão Lang trả những năm mươi quan tiền? Nàng không tin một gã Lang bên sườn đồi có thể có nhiều bạc như thế, không lẽ chừng…
Thấy thần Sâm nhíu mày trầm tư suy nghĩ, Hồ Mương hơi liếc sang nhìn, lại chăm chú nhìn vào vẻ mặt của hai người kia. Kẻ thì run rẩy như sợ hãi cái chết đang đến gần, kẻ thì cả người tuyệt vọng ngồi khụy xuống chiếu. Đang lúc hai thần Ngưu Sâm nghĩ ngợi, người ngồi trên cao nhất, cô chúa Thượng bất ngờ nói:
Câu hỏi bất chợt nói ra, cả căn phòng ngơ ngác, từ hai thần ngồi hai bên Tả hữu lẫn hai kẻ quỳ xuống dưới.
Mã Quang Tự ấp úng trả lời:
Tên bên cạnh cũng ngồi phụ họa cùng đồng đảng, chúng cứ cố gắng nhớ lại rồi khẳng định chắc nịch như thế.
Tức thì người ngồi trên cao khẽ gõ móng tay vào thành ghế, tiếng vang tuy chẳng lớn nhưng lại khiến ai nấy đều rùng mình căng thẳng.
Hai kẻ quỳ ở dưới nghe được tiếng nói sắc lạnh ấy thì cả người ngã quỵ xuống. Người ngồi trên cao chợt đổi sang giọng nhẹ nhàng như trần thuật lại:
Thanh Sơn và Hồ Mương bấy giờ chợt kinh ngạc, chẳng ngờ được cô chúa lại tinh tường như thế. Thử nhìn kĩ lại hai kẻ kia, quần áo trên người tuy chẳng phải loại đắt đỏ như vải tơ tằm nhưng cũng chẳng là loại gai đay bình thường. Cả hai người dáng đều cao gầy, bắp tay bắp chân cong queo nhưng mặt có dấu hiệu phát béo, đôi mắt thâm quầng, mụn mọc lấm chấm. Đúng là tác phong cho việc ăn uống hoang phí, đồ bổ quá nhiều trong thời gian ngắn khiến cơ thể chưa cân bằng hài hòa được.
Hóa ra hai kẻ này chỉ nói năm phần thật, năm phần kia là giả hết!
Đấy chính là điều cấm kị khi chầu trong phủ Thượng, gặp cô chúa mà xiên tạc, lắt léo, tội đáng phải chết!
Văn án:
Tiếng chim rừng vang vọng trong núi rừng, cả nhóm người cầm cây đèn đi lên núi, cẩn trọng bước từng bước một. Nửa đêm canh ba, những người đó đến núi Tuyết để làm gì? Họ nghe nói trên đỉnh núi của phủ chúa Thượng có cô chúa Tuyết Chi tinh thông thần pháp, những nỗi sợ kì bí trong lòng đều đến cầu giúp. Thần tựa núi, núi tựa Cô, bất cứ kẻ nào xâm phạm đến vùng châu Giang đều phải cúi đầu nhận tội.
Gió đêm lạnh lùng, rừng cây bạt ngàn, trong cả vùng đất rộng lớn này liệu còn đang giấu kín bí mật gì đây? Viên ngọc đỏ trên người cô chúa là thứ bất kì bọn yêu ma nào cũng muốn có, bởi quyền lực của thế giới huyền bí kia, không có kẻ nào không khát vọng.
Tiếng gió rừng đại ngàn vang dội, tiếng cồng chiêng ngân dài trong không gian. Bỗng chốc nằm mộng, tiếng trẻ con khóc réo rắt đứt từng hơi một, chợt nàng tỉnh giấc...tự hỏi bản thân rốt cuộc là ai?
Chờ đến cuối con đường, Tuyết Chi liệu có thể đứng vững trên phủ chúa Thượng bảo vệ được châu Giang và tìm ra bí ẩn của lời nguyền hơn một trăm năm trước không ? Sau tất cả, nàng sẽ chọn người mình yêu hay chọn cả vùng đất này?
Nàng không biết rằng mỗi bước đi của mình, thật ra là được một thế lực nào đó sắp xếp hết thảy!
Phủ Thượng chính giữa hoa sương
Cô Tuyết cười khẽ, tay ngang đỉnh đầu
Sơn đăng dốc núi trùng trùng
Con cầu con khấn cô ngồi cô trông.
Lưu ý: truyện là thế giới giả tưởng, tác giả lấy cảm hứng từ núi rừng Tây Bắc đại ngàn để truyền tải cho nhân vật thêm gần gũi đặc sắc. Mọi hành động trong tác phẩm đều được hư cấu tạo thành, tuyệt đối không nên học theo. Nếu cần biết chính xác thông tin, mời tra tìm các tài liệu chính gốc.
Chương 1:
“Hộc, hộc, hộc”.
Tiếng thở hắt dồn dập bên mang tai. Trong đêm khuya vắng lặng lại vang lên những âm thanh kì lạ, chẳng phải là tiếng chim cú gáy, tiếng sói tru hay tiếng kêu râm ran của một loài côn trùng nào đó.
Kẻ nào dám lên rừng vào nửa đêm trên núi Tuyết? Chắc chắn hắn ta chưa nghe về truyền thuyết cô chúa Thượng trên rừng, nếu đêm trăng đến gõ cửa, gõ ba lần là ma, gõ bảy lần là quỷ, gõ chín lần mới là người. Ngoài đêm trăm rằm hàng tháng, cửa rừng phong kín không cho kẻ nào dám bén mảng lên tới nơi đây.
Nhưng nửa đêm nửa hôm, người ta lên núi Tuyết làm gì? Ắt hẳn là việc cần gấp, nếu Xa lí, Châu sai không giải quyết được, chắc hẳn phải là một việc rất đau đầu?
Bóng dáng người đi trên núi vội vàng mà run rẩy. Trời đêm tháng tư đã ấm hơn mùa đông rất nhiều nhưng với đồi núi dốc thế này, người nào người nấy vã cả mồ hôi chảy dọc xuống má. Dưới ánh đèn lồng mờ mờ, xem chừng nhận ra đó là hai nam một nữ. Bỗng nhiên, từ trong ba người có tiếng nói run sợ vang lên:
“Á, hai người nhìn xem.”
Giọng của người đàn ông trẻ bật thốt vì sợ hãi nên âm giọng cao vút, tức thì trong rừng sâu thẳm vang lên tiếng chim Kiền vang dài.
“Suỵt”.
Hai người còn lại ra dấu tay làm hiệu im lặng, người đàn ông kia mới ý thức được sự lỗ mãng của mình cả người run cầm cập, trên mặt xanh lét, dưới ánh đèn leo lắt cùng màn đêm mịt mù, trông hắn ta như bị rút mất máu.
Không gian im lìm đến đáng sợ, ba người cùng tựa lưng vào gốc cây bồ đàn nghỉ ngơi. Sương đêm lạnh lẽo thấm đẫm vào vạt áo, vào da thịt rét căm căm, trái tim mỗi người đều đập thình thịch như có ai đe dọa. Chờ khoảng một khắc sau thì trong rừng không còn tiếng kêu vang vọng nữa, ba người mới dám cất bước đi tiếp.
Đường núi gập ghềnh, thỉnh thoảng có rễ cây rừng ngáng chân, những hòn đá tảng đầy góc cạnh nằm rải rác dưới đường đi. Dù đã chuẩn bị da trâu làm giày thật chắc nhưng cả ba người cũng khó tránh bị xây xước vài phần. Cuối cùng, khi ánh trăng đã ló dạng sau vùng rừng um tùm, mặt trăng màu vàng cam sáng tỏ soi từng bước chân kẻ đi rừng, ba người mới thôi hết lo sợ vì cảnh trước mắt.
Trước mặt họ, một con đường đầy đá cuội nằm gọn gàng trải chân người đi. Hai bên đều có loài hoa thơm tỏa ra khắp không gian, yên tĩnh lắng nghe còn cảm nhận được tiếng suối chảy róc rách, rất nhỏ, rất khẽ, rất tinh tế uốn lượn. Dường như đã đạt được mục đích nên ba người phấn chấn hẳn, rảo bước nhanh đi hết đoạn đường trải đá.
Cuối con đường là nơi họ cần tìm đến, ngẩng đầu lên, bờ tường dài qua ngang đầu chẳng thể nhìn thấy bên trong. Gió lạnh bên sườn núi thổi ngang làm cả ba rùng mình, cố gắng gõ chín tiếng bên cửa gỗ lim để thông báo với người gác cổng.
Tiếng chim lục cục ngân dài như đang ngái ngủ, cành cây bên cạnh cũng rung rinh theo. Xuyên qua tán lá, vầng trăng tròn như chia thành nhiều mảnh rời rạc chẳng rõ. Trăng đêm đậm màu, người ngoài cửa không thể đứng đợi lâu!
Chốc lát đã có tiếng mở cửa kẽo kẹt, một cái bóng màu đen ra mở cửa, ánh đèn hai bên cửa tối quá nên chẳng rõ khuôn mặt hoặc giả là người kia đã trùm kín bằng một chiếc áo choàng đen nên chỉ đoán rằng đó là một người đàn ông trẻ. Ba người không dám nói nhiều, cẩn trọng đi theo người đàn ông vào bên trong.
Cả bốn người cứ đi thẳng đến căn nhà phía trước, một người len lén ngẩng đầu lên quan sát. Chỉ thấy trước mắt là dãy nhà san sát nối liền nhau, mỗi nhà cách nhau chừng vài thước, dưới nền móng là lớp đá được chạm khắc hình các con muông thú. Chính giữa là căn nhà lớn nhất, ắt hẳn là nhà Cái để hội họp, lúc này nơi ấy đã sáng trưng vì đèn dầu để treo khắp trong các hốc tường.
Nhưng kì lạ là cả một viện to lớn thế này cũng không có bóng người lạ nào ngoài người đàn ông bí ẩn dẫn đường trước mắt. Nửa đêm canh ba, gió thổi làm lồng đèn chập chờn lay động, nếu chẳng phải là người vững dạ hoặc tin tưởng thần Thượng không có yêu ma thì chẳng dám bén mảng đến chân núi Tuyết đêm hôm thế này.
Cuối cùng cũng đến cửa nhà chính, cả bốn người bước lên bậc thang lát đá. Lại hồi hộp đứng chờ ở ngoài cửa chờ cô gọi vào. Lần này, người đàn ông trùm áo choàng màu đen mới lên tiếng:
- Các ngươi đến cùng một việc hay ghép nhóm?
Bấy giờ ba người mới nhận ra người đàn ông này đến độ chừng trung niên, chẳng dám để người đàn ông chờ lâu, một người đàn ông trong nhóm nói trước:
- Chúng tôi là ghép nhóm, trước khi lên đây đã bàn nhau chúng tôi vào trước, cô gái này vào sau.
Ý người đàn ông chỉ mình và người đàn ông kia. Lúc ấy, người đàn ông dẫn đường mới ngẩng mặt lên đăm đăm nhìn ba người. Tức thì cả ba người đều run rẩy sợ hãi, bởi lẽ trên khuôn mặt người kia có một vết sẹo dọc ngang mặt ghê rợn, dưới ánh đèn leo lắt càng thêm kinh dị, rùng mình.
- Vào đi. - Quay sang nói với cô gái - Cô ngồi ở bên chái hiên kia.
Ra là còn có một chái hông bên phải để ngồi tạm. Cô gái kéo chặt vạt áo khoác kín người rồi lủi thủi đi sang hướng chỉ dẫn, còn hai người đàn ông kia mở cửa đi vào.
Cánh cửa gỗ lim mở ra, chiếc chuông gió bằng ngà voi leng keng lay động. Hai người bước vào ba bước thì có tiếng đóng cửa ở ngoài, chuông gió cũng ngừng lại, nhẹ nhàng va đập khe khẽ rồi dừng hẳn. Hai người nhìn nhau rồi lại nhìn về phía chính điện, bóng ba người phụ nữ sau tấm rèm nưa. Họ lờ mờ nhận ra, người phụ nữ ngồi trên bậc ghế cao kia hơn hẳn chắc chắn là cô Thượng, hai người ngồi thấp hơn một bậc chính là thần Sâm và thần Ngưu.
Hai người bước đến ngồi trên chiếc chiếu hoa trải sẵn trước sàn, quỳ xuống, vấn rằng:
- Con tên là Mã Quang Tự.
- Con tên là Phèng A Sử.
Dừng một lát như để bề trên vừa kịp nghe tới, Mã Quang Tự quỳ bên trái đeo một chiếc vòng bạc trên cổ, đầu đội mũ đen, mặt đầy vết rám đen mở lời trước.
- Chuyện là chúng con tìm thấy được một viên ngọc rất đẹp trong hang Cuội, nó có khắc hình con trâu to chừng bằng ba ngón tay. Chúng con định dâng lên cô thì…
Sau rèm nưa, khẽ có tiếng động. Chỉ thấy người con gái ngồi trên ghế cao khẽ ra hiệu cho người bên cạnh, tiếng động chợt im lại. Lúc này Mã Quang Tự không dám nói tiếp, trên khuôn mặt xanh lét tái bợt. Người quỳ bên cạnh là Phèng A Sử phải cắn răng tiếp lời.
- Lạy cô tha cho chúng con một con đường sống. Chúng con nghèo túng, cả ngày chẳng có lấy hột gạo mà ăn, năm nay mất mùa đói kém nên bán con trâu đá ấy đi, tưởng rằng sau này có của ăn của để, thế mà…
Phèng A Sử kể lại chi tiết việc hôm ấy. Ngày ấy sau khi trở về nhà, cả hai người chia đôi số bạc ăn mừng một bữa lớn. Thế mà chẳng rõ vì sao mấy hôm sau, con cái hai nhà đều bắt đầu nổi rôm sẩy, tìm thầy lang cắt lá uống cũng chẳng khỏi mà thêm sốt hơn. Chẳng rõ là bệnh gì, hai người mới bắt đầu nhớ đến con trâu đá bán đi, có lẽ nào phạm phải điều cấm gì nên mới thế?
Mấy ngày chạy vạy cúng ma, cúng rừng cũng không khỏi, thuốc bao nhiêu cũng chẳng chịu dứt. Vợ của A Sử bắt đầu nổi lên những mụn đỏ ngứa ngáy, đang ở nhà phát điên phát cuồng, thần trí mơ hồ gặp ai cũng không nhận ra, hai đứa bé kia thì càng nghiêm trọng, những vết thương bắt đầu lan từ ngựa, bụng rồi khắp tay chân. Bấy giờ lâm vào cảnh túng quẫn, đợi mãi đến ngày rằm lên núi Tuyết để xin cô thuốc, chỉ mong mọi chuyện có thể cứu vãn được.
- Lạy cô, cô cứu chúng con.
Cả hai người đàn ông đều chừng chực nước mắt, sống mũi cay xè đi vì sai lầm dại dột. Thầy lang nói, nói rằng con của họ đã bị thần rừng cho lời nguyện, chỉ còn cách vứt lên rừng cho sói ăn thì mới hết nạn. Thế nhưng họ biết là do lỗi tại mình nên mới gặp cảnh này, chỉ sợ không chỉ vợ con mà đến cả bản thân cũng chẳng sống nổi.
Người ngồi sau rèm tựa như đang ngẫm ngợi, đôi môi đỏ hơi mím, trên đầu đội một chiếc mũ miện đính đá, những sợi ngọc màu trắng che kín đi vầng trán, chẳng ai đoán được gương mặt ấy là như thế nào.
Thần Sâm ngồi bên trái ngẩng đầu nhìn cô Thượng, người ấy khẽ gật đầu, lúc này thần Sâm mới bảo:
- Ngươi bán cho ai, cửa hiệu ấy là ở đâu?
Tức thì, Mã Quang Tự vội trả lời:
- Con cũng không rõ tên, chỉ biết mọi người gọi là thầy Lang bên sườn núi phía Đông làng Kha.
Thần Sâm nhíu mày, hỏi tiếp:
- Hắn trông thế nào? Sau khi gặp chuyện trong nhà ngươi có đến tìm hắn không?
Mã Quang Tự cố gắng nhớ lại nửa tháng trước, khi mà lần đầu gặp ông chủ kì lạ này. Vì người ta đồn rằng cần bán vật quý hiếm gì thì cứ luồn lách qua cửa ngõ này nên hắn chẳng mảy may gì tìm hiểu. Lão Lang cũng chừng bảy mươi, dáng người gầy gò, lưng có dấu hiệu hơi gù. Khuôn mặt chít khăn chỉ lộ ra đôi mắt màu xám vẩn đục. Lúc lão nhìn thấy viên đá đó tròng mắt chợt đảo, vội đưa ra giá năm mươi quan tiền. Thế mà quay đi quay lại, lúc cả gia đình gặp chuyện, Tự có đi qua sườn núi phía Đông, cửa vẫn đóng kín chỉ thò một lỗ nhỏ ra ngoài. Tự và A Sử đi vào, trong phòng chỉ có nghe tiếng giã thuốc đều đều trong phòng và người bán kia thì xua tay, lắc đầu như chẳng nhận ra điều gì.
Tức mình, Tự và A Sử đòi lại con trâu đó thì bị lão Lang chửi cho một trận, đòi lại năm mươi quan tiền. Nhưng cả hai đã tiêu đi một nửa, vay chạy cũng chẳng được mà người nhà thì càng lúc càng nguy.
Thanh Sơn ngồi nghe thật lâu, nghe được cả tiếng chim rừng gáy đêm ồn ào bên sườn núi. Quả thật việc này nhỏ thì chẳng nhỏ, lớn cũng chẳng lớn, con trâu đá kia rốt cuộc là thứ gì mà để lão Lang trả những năm mươi quan tiền? Nàng không tin một gã Lang bên sườn đồi có thể có nhiều bạc như thế, không lẽ chừng…
Thấy thần Sâm nhíu mày trầm tư suy nghĩ, Hồ Mương hơi liếc sang nhìn, lại chăm chú nhìn vào vẻ mặt của hai người kia. Kẻ thì run rẩy như sợ hãi cái chết đang đến gần, kẻ thì cả người tuyệt vọng ngồi khụy xuống chiếu. Đang lúc hai thần Ngưu Sâm nghĩ ngợi, người ngồi trên cao nhất, cô chúa Thượng bất ngờ nói:
- Các ngươi đã dùng số tiền kia vào việc gì?
Câu hỏi bất chợt nói ra, cả căn phòng ngơ ngác, từ hai thần ngồi hai bên Tả hữu lẫn hai kẻ quỳ xuống dưới.
Mã Quang Tự ấp úng trả lời:
- Chúng con...chúng con mua rượu, thịt gà, thịt trâu về ăn. Nhưng chúng con quả thật, quả thật không dám làm chuyện gì khác.
Tên bên cạnh cũng ngồi phụ họa cùng đồng đảng, chúng cứ cố gắng nhớ lại rồi khẳng định chắc nịch như thế.
Tức thì người ngồi trên cao khẽ gõ móng tay vào thành ghế, tiếng vang tuy chẳng lớn nhưng lại khiến ai nấy đều rùng mình căng thẳng.
- Sao? Sung sướng nhỉ? Đúng là hành động của những kẻ tham lam vô sỉ. Năm mươi quan tiền chẳng phải là số tiền nhỏ, đủ để các ngươi sống trong vòng một năm, thế mà chỉ mới vài ngày đã tiêu đi ba mươi lượng bạc.
Hai kẻ quỳ ở dưới nghe được tiếng nói sắc lạnh ấy thì cả người ngã quỵ xuống. Người ngồi trên cao chợt đổi sang giọng nhẹ nhàng như trần thuật lại:
- Ngày đầu tiên giết trâu, hai ngươi rủ bạn bè đến ăn uống ba ngày ba đêm. Không chỉ trâu mà còn có gà, vịt, dê, chẳng thiếu thứ gì trên đời. Nên là đừng có lấy cái đói, cái nghèo để tranh thủ sự thương xót của phủ Thượng.
Thanh Sơn và Hồ Mương bấy giờ chợt kinh ngạc, chẳng ngờ được cô chúa lại tinh tường như thế. Thử nhìn kĩ lại hai kẻ kia, quần áo trên người tuy chẳng phải loại đắt đỏ như vải tơ tằm nhưng cũng chẳng là loại gai đay bình thường. Cả hai người dáng đều cao gầy, bắp tay bắp chân cong queo nhưng mặt có dấu hiệu phát béo, đôi mắt thâm quầng, mụn mọc lấm chấm. Đúng là tác phong cho việc ăn uống hoang phí, đồ bổ quá nhiều trong thời gian ngắn khiến cơ thể chưa cân bằng hài hòa được.
Hóa ra hai kẻ này chỉ nói năm phần thật, năm phần kia là giả hết!
Đấy chính là điều cấm kị khi chầu trong phủ Thượng, gặp cô chúa mà xiên tạc, lắt léo, tội đáng phải chết!