Tương tư là một bài thơ hay trong dòng chảy văn học Việt Nam trước nay, vậy tại sao bài thơ lại có sức sống dẻo dai theo năm tháng tới vậy? Vì lí do gì bạn đọc muôn đời vẫn coi Tương tư là bài thơ ghi trong sổ tay ấp gối, khẽ đọc lên khi nhớ tới người thương? Cùng tới với bài viết Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính có dàn ý và bài mẫu tham khảo để hiểu cặn kẽ hơn về bài thơ tình tuyệt vời này bạn nhé.
Xem trước bài viết liên quan:
Tìm hiểu tác giả Nguyễn Bính
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính
I. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tương tư - Nguyễn bính
II. Thân bài: Phân tích bài thơ tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính
+ Hình ảnh đôi trai gái mang dáng vóc mộc mạc, giản dị
+ Sự nhớ thương da diết của chàng trai, nỗi nhớ thương của một người dành cho một người
+ Nhận thấy được tình cảm nồng thắm của chàng trai dành cho cô gái
+ Nỗi buồn da diết của người tương tư được thể hiện rất rõ ràng
+ Sự thay đổi cách xưng hô
+ Thể hiện nên sự độc đáo, chân thật, mộc mạc trong thơ Nguyễn Bình
Tương tư là bài thơ nói lên nỗi lòng của chàng trai với tình yêu cháy bỏng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Ở đây, tác giả đã sử dụng ngay địa danh để thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu. Có lẽ người mà chàng trai đang tương tư ở thôn Đông, còn chàng trai thì đang ở thôn Đoài ngày nhớ đêm mong. Sự hoán dụ ấy càng làm nổi bật lên vẻ bình dị, chân thật của tình yêu đôi lứa ở vùng đồng quê. Tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái chắc hẳn đã rất sâu sắc. Thế nên ở câu tiếp theo, tác giả sử dụng ngay thành ngữ “chín nhớ mười mong” để thể hiện sự háo hức, gấp gáp muốn được gặp người mình yêu.
Nguyễn Bính còn sâu sắc hơn nữa khi mượn chuyện nắng mưa của trời để trải lòng. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh, đó là căn bệnh rất đỗi bình thường giống như chuyện nắng mưa của trời. Thế nên “tôi yêu nàng” thì phải tương tư thôi. Chỉ vỏn vẹn 4 câu mở đầu ấy thôi, Nguyễn Bính đã khiến người ta muốn tìm hiểu sâu hơn về mối tương tư của chàng trai thôn Đoài và cô nàng thôn Đông.
Tương tư mang đậm dấu ấn của những gì chân thật nhất
Trạng thái “tương tư” của chàng trai ngay tức khắc đã chuyển sang những than thở, hờn dỗi. Chàng trai trách cô gái hững hờ, sự hờn dỗi, trách móc ấy xuất phát từ tình yêu sâu sắc.
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Sự hờn trách của chàng trai nghe có vẻ vô lý. Bởi trong tình yêu, thường con trai sẽ là người chủ động. Nhưng ở đây, chàng trai lại là một người bị động, chỉ biết ngồi than trách mà không tự mình đi tìm tình yêu. Có lẽ sự ngược ở đây lại là ý đồ của Nguyễn Bính khi muốn tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm. Thế nên, chàng trai mới có thể bộc bạch được nỗi tương tư rõ nét hơn.
Chàng trai trách cô gái sao chẳng thấy sang thăm dù giờ đây “hai thôn chung lại một làng” chỉ cách một đầu đình. Ấy vậy mà thời gian trôi qua, đến nỗi cây đã chuyển từ lá xanh sang lá vàng, từ mùa xuân sang thu vẫn chẳng thấy bóng dáng nàng đâu. Phải chăng không vì do đường xa cách trở mà do tình cách trở. Tâm trạng của chàng trai mang vẻ hờn dỗi, trách móc, nhưng sâu trong tim lại là tình yêu sâu sắc. Bởi có yêu sâu sắc mới có thể có được những cảm xúc tương tư thật đến như vậy.
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Tâm trạng tương tư của chàng trai thật nhiều cung bậc. Từ trách móc, hờn giận, chàng trai đã chuyển sang những ước vọng xa xôi về tình yêu. Nỗi tương tư của chàng trai trằn trọc bao đêm dài, nhưng chẳng biết tỏ cùng ai bởi “ biết cho ai, hỏi ai người biết cho”. Có lẽ nỗi tương tư của chàng trai chỉ có một lời giải duy nhất. Thế nên, chàng trai chỉ chờ đợi “ bao giờ bến mới gặp đò” để có thể hóa giải nỗi điềm ấy. Ở đây, Nguyễn Bính đã sử dụng từ ngữ ẩn dụ “bến” và “đò” để miêu tả hình ảnh chàng trai và cô gái trong tình hình. Hình ảnh “bến”, “đò” cũng đã được dùng rất nhiều trong thơ ca Việt Nam khi nhắc tới tình yêu. Tác giả cũng dùng hình ảnh “hoa khuê các”, “bướm giang hồ” để miêu tả chàng và nàng. Có lẽ nàng là tiểu thư khuê các nhà giàu, nên dù chỉ cách nhau một đầu đình, nhưng vì cách trở, vì ngăn cấm nên đã không sang gặp chàng được.
Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
Ở đây, Nguyễn Bính đã sử dụng hình ảnh “cau” “trầu” để thể hiện khát khao hạnh phúc của chàng trai. “Cau” và “trầu” là hình ảnh gắn liền với tình yêu, “miếng trầu là đầu câu chuyện” để bắt đầu cuộc sống gia đình. Có lẽ chàng trai đang khao khát về một đám cưới, khi hai trái tim về chung một nhà.
Trầu nhà em đã có sẵn, cau nhà anh cũng sẵn sàng. Điều duy nhất còn chờ đợi đó chính là sự công nhận về tình yêu của hai người. Ở đây, tác giả cũng mạnh dạn thay đổi cách xưng hô. Thay vì xưng ngang, giờ đây, tác giả đã gọi thân mật hơn là “anh” và “em”. Sự chuyển biến này chẳng phải chốc lát, có lẽ mối tình của chàng thôn Đoài, nàng thôn Đông đã không còn “tương tư” mà đã trở nên sâu sắc. Giờ đây, chàng trai chỉ muốn giãi bày trực tiếp với cô gái mình thương yêu. Và chàng trai cũng thể hiện rõ tình yêu của mình “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Đó như sự khẳng định: anh đã trót mang lòng yêu em rồi, còn “cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào”?
Tình cảm mà nhân vật trữ tình dành đến cho cô gái thôn Đoài vô cùng chân thành, nhưng không kém phần mãnh liệt. Dù bày tỏ tình yêu một cách trực tiếp nhưng lại vô cùng tế nhị đủ để thấy tình yêu mà chàng trai dành đến cho cô gái sâu sắc thế nào. Tình cảm của chàng trai là thật, nhưng chàng trai cũng không ép buộc cô gái phải trả lời ngay mà rất nhẹ nhàng để cô gái có thể tự bày tỏ lòng mình.
Tương tư chính là một tác phẩm ghi đậm phong cách thơ Nguyễn Bính. Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng lại mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc nhất. Phân tích bài thơ Tương tư ta thấy được sự tinh tế của Nguyễn Bính trong việc sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh vô cùng đặc biệt. Có lẽ bởi vậy Tương tư của Nguyễn Bính trở thành lời tỏ tình quốc dân được sử dụng qua bao thế hệ.
Tác giả Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đi tiên phong và tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên khác với các nhà thơ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp thì thơ của Nguyễn Bính lại thường đậm đà truyền thống dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự bình dị, mộc mạc của đồng quê. Bài thơ “Tương tư” của ông nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông.
Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa. Sự tương tư thường bắt đầu với những con người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật trữ tình tương tư là một chàng trai quê chân thật, chất phác. Diễn biến trong tâm trạng của chàng trai chính là mạch cảm xúc của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu ta cảm nhận được nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu:
Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện bằng những hình thức quen thuộc của ca dao xưa, có thể thấy hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” và “thôn Đông” chính là con người, và chính là chàng trai của thôn Đoài đang nhớ tới người mình yêu ở thôn Đông. Rồi lại đong đếm cụ thể nỗi nhớ mong ấy bằng thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”. Có thể thấy nỗi nhớ ấy đã quá đong đầy, chan chứa. Hình ảnh ví von đầy hài hước “nắng mưa” là bệnh của trời đó là lấy cái quy luật của tự nhiên, của trời đất để thể hiện cho sự tương tư trong tình yêu cũng là một lẽ tự nhiên như thế. Tưởng như đó là một đôi trai gái đã bén duyên nhau, nhưng thực ra lại vừa rõ ràng vừa mơ hồ, tình cảm của chàng trai thì đã rõ, còn cô gái thì vẫn thấp thoáng, vu vơ. Bởi thế mà trong ba khổ thơ sau, lời hờn trách của chàng trai được bộc lộ ra, trách sao người mình yêu quá hững hờ:
Nỗi tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại. Sự trách móc nhẹ nhàng sao gần nhau chỉ cách nhau có “một đầu đình” mà bên ấy lại chẳng sang bên này, để cho bên này chờ mong mòn mỏi. Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi. Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định.
Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát. Sự cách biệt giữa bên ấy bên này ngày càng xa xôi, thời gian đã dài đằng đẵng “ngày lại qua ngày” đến nỗi la xanh nhuộm chuyển thành lá vàng, thế nhưng thời gian trôi lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của bên ấy. Hỏi cứ như vậy làm sao bên này lại chẳng chờ đợi đến héo mòn, khô úa.
Như vậy cho đến những khổ thơ này ta đã rõ: tất cả đều là từ một phía, chỉ là nỗi tương tư chân thành của chàng trai không được đáp lại. Yêu người nhưng chẳng được người yêu lai, nhớ mong nhưng chẳng được gặp gỡ, bởi người ta cũng chẳng muốn gặp mình, chàng trai lại đành quay lại với chính mình, trở lại với niềm mơ ước thầm kín của mình về một mối nhân duyên tốt đẹp:
Nhà em có một giàn giầu…
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Chàng trai đã mạnh dạn xưng “anh” và gọi người mình yêu là “em”, chẳng cần bóng gió, vòng vo xa xôi nữa mà đi thẳng tới vấn đề muốn được kết tóc se duyên, muốn được ở bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng thật trớ trêu thay chàng trai vẫn không thoát khỏi được nỗi nhớ mong chẳng được đền đáp, vẫn là câu hỏi không ai hồi đáp.
Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc.
Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu : một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu ; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế ! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở.
Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng ; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi :
- Vừa thoáng tiếng còi tàu
Lòng đã Nam đã Bắc
- Nên cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ.
(Xuân Quỳnh)
Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng :
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu ! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính ! Ấy là giọng kể lể. Một câu thơ được viết toàn bằng số từ ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu "chín nhớ, mười mong", khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải :
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp trong so sánh đó nữa. "Gió mưa là bệnh của giời", thì bệnh đó là một thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra - một thứ bệnh nội sinh có sẵn ! Còn "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" thì là căn bệnh mắc phải do "ngoại nhập". Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ "bệnh", mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì... phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng ? Có phải thế là sự khôn ngoan dễ thương ?
Hình như tương tư thường bắt đầu bằng kể lể, giãi bày, và rồi chẳng mấy ai chịu dừng lại ở đó. Sẽ còn là trách móc, hờn giận, sẽ còn là giận dỗi đơn phương, khát khao đòi hỏi, cũng đơn phương. Nghĩa là bệnh tương tư sẽ mỗi ngày một thêm trầm trọng. Mà "kì" nhất là, cũng một không gian ấy thôi, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của mình - cho mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, trái lại, đến khi trách móc, "kể tội đối phương" thì nó lại thu hẹp đến kiệt cùng :
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Mở ra, "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông", tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu : tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư ! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao !
Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian:
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian:
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư trầm trọng ! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy ! "Ngày qua ngày lại qua ngày", câu thơ dịp nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ "lại" chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nuôi lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng.
Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư ! Hay đó là cây tương tư ?! ). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu : ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên. Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn ? - nạn nhân bởi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà... Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon !
Cái cây kia là hình ảnh khác của anh ! Cái cây kia chính là anh. Tả cảnh ngụ tình là thế ! Phải nói chữ "nhuộm" thật đắt. Cũng viết về sự thay đổi sắc màu trên cây cỏ, khi Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Chữ "nhuốm" rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp ! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã bước sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới "nhuộm". Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ "nhuộm" của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất : lá xanh đã biến thành lá vàng rồi ! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi ! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần.
Có phải tương tư là một gánh nặng đơn phương, càng nặng nề bao nhiêu, càng nghĩ "đối phương" vô tình bấy nhiêu. Vì thế mà cung bậc tương tư cứ chuyển biến rất tự nhiên từ kể lể, thở than sang trách móc ? Mà lời trách móc thì, ôi chao, đầy một lối "quy kết" khó mà "chạy tội" được :
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Vẫn cái "luận điệu" dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thăm thẳm. Còn ở đây thì "phủ định sạch trơn" : không hề có xa cách - không có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì ! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có "khiếp" không ! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể "quy chụp" người ta vô tình được ! Sao những trái tim yêu lại có thể "ranh mãnh" một cách hồn nhiên đến thế ! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi "người ta" đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội "khó chịu" đến đâu cũng đành mà "chịu khó" thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao ?
Trách chưa hết đã lại hờn:
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Hờn mát đến điều rồi thì lại khát khao đến độ :
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi ! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật nguy hiểm!
Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thành đôi thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao khát ấy còn ký thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đồi ấy còn xa xôi, càng về sau càng xích lại gần. Lần đầu, 1990, khi viết cho sách Để dạy tốt Văn 11 dành cho giáo viên, tôi mới chỉ nhận ra một nửa số cặp ấy. Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ :
Thôn Đoài - Thôn Đông
Một người - Một người
Bên ấy - Bên này
Bến - Đò
Hoa Khuê Các - Bướm giang hồ
Nhà anh - Nhà em
Và cuối cùng là :
Trầu - Cau
Kết như thế thật khéo
Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất : ấy là trầu - cau! Mà trầu cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm luyến ái. Là một nhà thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Nghĩa là với cau - trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới chỉ ở dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi. Vâng, đợi chờ một vị "cứu tinh" duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn hờ kia sẽ kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa ! Nỗi khổ sở sẽ hết giày vò ! Vân vân và vân vân.
Nhưng em biết không, khi tất cả những điều kia đã thành, thì cũng là lúc nỗi tương tư bắt đầu... bị hoá giải.
Xem trước bài viết liên quan:
Tìm hiểu tác giả Nguyễn Bính
Soạn bài Tương tư của Nguyễn Bính
Dàn ý phân tích bài thơ Tương tư
I. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tương tư - Nguyễn bínhII. Thân bài: Phân tích bài thơ tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính
1. Bốn câu thơ đầu:
+ Nỗi tương tư của nhà thơ+ Hình ảnh đôi trai gái mang dáng vóc mộc mạc, giản dị
+ Sự nhớ thương da diết của chàng trai, nỗi nhớ thương của một người dành cho một người
2. Tâm trạng của người tương tư:
+ Có sự trách móc nhẹ nhàng của chàng trai+ Nhận thấy được tình cảm nồng thắm của chàng trai dành cho cô gái
+ Nỗi buồn da diết của người tương tư được thể hiện rất rõ ràng
+ Sự thay đổi cách xưng hô
+ Thể hiện nên sự độc đáo, chân thật, mộc mạc trong thơ Nguyễn Bình
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bình
Hướng dẫn phân tích bài Tương tư
Mở bài
Nguyễn Bính (1918 – 1966) là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông thường mang màu sắc dân dã, thấm đẫm hồn quê. “Tương tư” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho màu sắc thơ ca bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ được sáng tác năm 1939 tại Hoàng Mai, và được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Tương tư hội tụ những cung bậc cảm xúc chân thực nhất, gần gũi nhất và cũng là cái nhìn của tác giả về cuộc sống.Tương tư là bài thơ nói lên nỗi lòng của chàng trai với tình yêu cháy bỏng
Thân bài Phân tích bài thơ Tương tư
- Luận điểm 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Ở đây, tác giả đã sử dụng ngay địa danh để thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu. Có lẽ người mà chàng trai đang tương tư ở thôn Đông, còn chàng trai thì đang ở thôn Đoài ngày nhớ đêm mong. Sự hoán dụ ấy càng làm nổi bật lên vẻ bình dị, chân thật của tình yêu đôi lứa ở vùng đồng quê. Tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái chắc hẳn đã rất sâu sắc. Thế nên ở câu tiếp theo, tác giả sử dụng ngay thành ngữ “chín nhớ mười mong” để thể hiện sự háo hức, gấp gáp muốn được gặp người mình yêu.
Nguyễn Bính còn sâu sắc hơn nữa khi mượn chuyện nắng mưa của trời để trải lòng. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh, đó là căn bệnh rất đỗi bình thường giống như chuyện nắng mưa của trời. Thế nên “tôi yêu nàng” thì phải tương tư thôi. Chỉ vỏn vẹn 4 câu mở đầu ấy thôi, Nguyễn Bính đã khiến người ta muốn tìm hiểu sâu hơn về mối tương tư của chàng trai thôn Đoài và cô nàng thôn Đông.
Tương tư mang đậm dấu ấn của những gì chân thật nhất
Trạng thái “tương tư” của chàng trai ngay tức khắc đã chuyển sang những than thở, hờn dỗi. Chàng trai trách cô gái hững hờ, sự hờn dỗi, trách móc ấy xuất phát từ tình yêu sâu sắc.
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Sự hờn trách của chàng trai nghe có vẻ vô lý. Bởi trong tình yêu, thường con trai sẽ là người chủ động. Nhưng ở đây, chàng trai lại là một người bị động, chỉ biết ngồi than trách mà không tự mình đi tìm tình yêu. Có lẽ sự ngược ở đây lại là ý đồ của Nguyễn Bính khi muốn tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm. Thế nên, chàng trai mới có thể bộc bạch được nỗi tương tư rõ nét hơn.
Chàng trai trách cô gái sao chẳng thấy sang thăm dù giờ đây “hai thôn chung lại một làng” chỉ cách một đầu đình. Ấy vậy mà thời gian trôi qua, đến nỗi cây đã chuyển từ lá xanh sang lá vàng, từ mùa xuân sang thu vẫn chẳng thấy bóng dáng nàng đâu. Phải chăng không vì do đường xa cách trở mà do tình cách trở. Tâm trạng của chàng trai mang vẻ hờn dỗi, trách móc, nhưng sâu trong tim lại là tình yêu sâu sắc. Bởi có yêu sâu sắc mới có thể có được những cảm xúc tương tư thật đến như vậy.
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Tâm trạng tương tư của chàng trai thật nhiều cung bậc. Từ trách móc, hờn giận, chàng trai đã chuyển sang những ước vọng xa xôi về tình yêu. Nỗi tương tư của chàng trai trằn trọc bao đêm dài, nhưng chẳng biết tỏ cùng ai bởi “ biết cho ai, hỏi ai người biết cho”. Có lẽ nỗi tương tư của chàng trai chỉ có một lời giải duy nhất. Thế nên, chàng trai chỉ chờ đợi “ bao giờ bến mới gặp đò” để có thể hóa giải nỗi điềm ấy. Ở đây, Nguyễn Bính đã sử dụng từ ngữ ẩn dụ “bến” và “đò” để miêu tả hình ảnh chàng trai và cô gái trong tình hình. Hình ảnh “bến”, “đò” cũng đã được dùng rất nhiều trong thơ ca Việt Nam khi nhắc tới tình yêu. Tác giả cũng dùng hình ảnh “hoa khuê các”, “bướm giang hồ” để miêu tả chàng và nàng. Có lẽ nàng là tiểu thư khuê các nhà giàu, nên dù chỉ cách nhau một đầu đình, nhưng vì cách trở, vì ngăn cấm nên đã không sang gặp chàng được.
- Luận điểm 2: Phân tích bài thơ Tương tư – Khao khát về hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn
Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
Ở đây, Nguyễn Bính đã sử dụng hình ảnh “cau” “trầu” để thể hiện khát khao hạnh phúc của chàng trai. “Cau” và “trầu” là hình ảnh gắn liền với tình yêu, “miếng trầu là đầu câu chuyện” để bắt đầu cuộc sống gia đình. Có lẽ chàng trai đang khao khát về một đám cưới, khi hai trái tim về chung một nhà.
Trầu nhà em đã có sẵn, cau nhà anh cũng sẵn sàng. Điều duy nhất còn chờ đợi đó chính là sự công nhận về tình yêu của hai người. Ở đây, tác giả cũng mạnh dạn thay đổi cách xưng hô. Thay vì xưng ngang, giờ đây, tác giả đã gọi thân mật hơn là “anh” và “em”. Sự chuyển biến này chẳng phải chốc lát, có lẽ mối tình của chàng thôn Đoài, nàng thôn Đông đã không còn “tương tư” mà đã trở nên sâu sắc. Giờ đây, chàng trai chỉ muốn giãi bày trực tiếp với cô gái mình thương yêu. Và chàng trai cũng thể hiện rõ tình yêu của mình “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Đó như sự khẳng định: anh đã trót mang lòng yêu em rồi, còn “cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào”?
Tình cảm mà nhân vật trữ tình dành đến cho cô gái thôn Đoài vô cùng chân thành, nhưng không kém phần mãnh liệt. Dù bày tỏ tình yêu một cách trực tiếp nhưng lại vô cùng tế nhị đủ để thấy tình yêu mà chàng trai dành đến cho cô gái sâu sắc thế nào. Tình cảm của chàng trai là thật, nhưng chàng trai cũng không ép buộc cô gái phải trả lời ngay mà rất nhẹ nhàng để cô gái có thể tự bày tỏ lòng mình.
Kết bài
Bằng những từ ngữ gần gũi, Nguyễn Bính đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc tâm trạng tương tư của một chàng trai quê. Đó là tình cảm chân thành bắt nguồn từ sâu con tim. Tình yêu của chàng trai quê ấy được hòa quyện với cảnh quê, mối duyên quê tạo nên sự đồng điệu, ấn tượng.Tương tư chính là một tác phẩm ghi đậm phong cách thơ Nguyễn Bính. Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng lại mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc nhất. Phân tích bài thơ Tương tư ta thấy được sự tinh tế của Nguyễn Bính trong việc sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh vô cùng đặc biệt. Có lẽ bởi vậy Tương tư của Nguyễn Bính trở thành lời tỏ tình quốc dân được sử dụng qua bao thế hệ.
Phân tích bài thơ Tương tư ngắn gọn
Tác giả Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đi tiên phong và tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên khác với các nhà thơ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp thì thơ của Nguyễn Bính lại thường đậm đà truyền thống dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự bình dị, mộc mạc của đồng quê. Bài thơ “Tương tư” của ông nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông.Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa. Sự tương tư thường bắt đầu với những con người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật trữ tình tương tư là một chàng trai quê chân thật, chất phác. Diễn biến trong tâm trạng của chàng trai chính là mạch cảm xúc của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu ta cảm nhận được nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông…
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện bằng những hình thức quen thuộc của ca dao xưa, có thể thấy hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” và “thôn Đông” chính là con người, và chính là chàng trai của thôn Đoài đang nhớ tới người mình yêu ở thôn Đông. Rồi lại đong đếm cụ thể nỗi nhớ mong ấy bằng thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”. Có thể thấy nỗi nhớ ấy đã quá đong đầy, chan chứa. Hình ảnh ví von đầy hài hước “nắng mưa” là bệnh của trời đó là lấy cái quy luật của tự nhiên, của trời đất để thể hiện cho sự tương tư trong tình yêu cũng là một lẽ tự nhiên như thế. Tưởng như đó là một đôi trai gái đã bén duyên nhau, nhưng thực ra lại vừa rõ ràng vừa mơ hồ, tình cảm của chàng trai thì đã rõ, còn cô gái thì vẫn thấp thoáng, vu vơ. Bởi thế mà trong ba khổ thơ sau, lời hờn trách của chàng trai được bộc lộ ra, trách sao người mình yêu quá hững hờ:
“Hai thôn chung lại một làng…
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Nỗi tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại. Sự trách móc nhẹ nhàng sao gần nhau chỉ cách nhau có “một đầu đình” mà bên ấy lại chẳng sang bên này, để cho bên này chờ mong mòn mỏi. Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi. Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định.
Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát. Sự cách biệt giữa bên ấy bên này ngày càng xa xôi, thời gian đã dài đằng đẵng “ngày lại qua ngày” đến nỗi la xanh nhuộm chuyển thành lá vàng, thế nhưng thời gian trôi lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của bên ấy. Hỏi cứ như vậy làm sao bên này lại chẳng chờ đợi đến héo mòn, khô úa.
Như vậy cho đến những khổ thơ này ta đã rõ: tất cả đều là từ một phía, chỉ là nỗi tương tư chân thành của chàng trai không được đáp lại. Yêu người nhưng chẳng được người yêu lai, nhớ mong nhưng chẳng được gặp gỡ, bởi người ta cũng chẳng muốn gặp mình, chàng trai lại đành quay lại với chính mình, trở lại với niềm mơ ước thầm kín của mình về một mối nhân duyên tốt đẹp:
Nhà em có một giàn giầu…
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Chàng trai đã mạnh dạn xưng “anh” và gọi người mình yêu là “em”, chẳng cần bóng gió, vòng vo xa xôi nữa mà đi thẳng tới vấn đề muốn được kết tóc se duyên, muốn được ở bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng thật trớ trêu thay chàng trai vẫn không thoát khỏi được nỗi nhớ mong chẳng được đền đáp, vẫn là câu hỏi không ai hồi đáp.
Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc.
***
Phân tích bài thơ Tương tư hay nhất
Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu : một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu ; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế ! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở.Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng ; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi :
- Vừa thoáng tiếng còi tàu
Lòng đã Nam đã Bắc
- Nên cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ.
(Xuân Quỳnh)
Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng :
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu ! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính ! Ấy là giọng kể lể. Một câu thơ được viết toàn bằng số từ ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu "chín nhớ, mười mong", khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải :
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp trong so sánh đó nữa. "Gió mưa là bệnh của giời", thì bệnh đó là một thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra - một thứ bệnh nội sinh có sẵn ! Còn "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" thì là căn bệnh mắc phải do "ngoại nhập". Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ "bệnh", mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì... phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng ? Có phải thế là sự khôn ngoan dễ thương ?
Hình như tương tư thường bắt đầu bằng kể lể, giãi bày, và rồi chẳng mấy ai chịu dừng lại ở đó. Sẽ còn là trách móc, hờn giận, sẽ còn là giận dỗi đơn phương, khát khao đòi hỏi, cũng đơn phương. Nghĩa là bệnh tương tư sẽ mỗi ngày một thêm trầm trọng. Mà "kì" nhất là, cũng một không gian ấy thôi, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của mình - cho mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, trái lại, đến khi trách móc, "kể tội đối phương" thì nó lại thu hẹp đến kiệt cùng :
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Mở ra, "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông", tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu : tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư ! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao !
Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian:
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian:
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư trầm trọng ! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy ! "Ngày qua ngày lại qua ngày", câu thơ dịp nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ "lại" chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nuôi lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng.
Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư ! Hay đó là cây tương tư ?! ). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu : ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên. Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn ? - nạn nhân bởi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà... Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon !
Cái cây kia là hình ảnh khác của anh ! Cái cây kia chính là anh. Tả cảnh ngụ tình là thế ! Phải nói chữ "nhuộm" thật đắt. Cũng viết về sự thay đổi sắc màu trên cây cỏ, khi Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Chữ "nhuốm" rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp ! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã bước sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới "nhuộm". Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ "nhuộm" của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất : lá xanh đã biến thành lá vàng rồi ! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi ! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần.
Có phải tương tư là một gánh nặng đơn phương, càng nặng nề bao nhiêu, càng nghĩ "đối phương" vô tình bấy nhiêu. Vì thế mà cung bậc tương tư cứ chuyển biến rất tự nhiên từ kể lể, thở than sang trách móc ? Mà lời trách móc thì, ôi chao, đầy một lối "quy kết" khó mà "chạy tội" được :
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Vẫn cái "luận điệu" dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thăm thẳm. Còn ở đây thì "phủ định sạch trơn" : không hề có xa cách - không có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì ! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có "khiếp" không ! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể "quy chụp" người ta vô tình được ! Sao những trái tim yêu lại có thể "ranh mãnh" một cách hồn nhiên đến thế ! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi "người ta" đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội "khó chịu" đến đâu cũng đành mà "chịu khó" thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao ?
Trách chưa hết đã lại hờn:
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Hờn mát đến điều rồi thì lại khát khao đến độ :
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi ! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật nguy hiểm!
Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thành đôi thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao khát ấy còn ký thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đồi ấy còn xa xôi, càng về sau càng xích lại gần. Lần đầu, 1990, khi viết cho sách Để dạy tốt Văn 11 dành cho giáo viên, tôi mới chỉ nhận ra một nửa số cặp ấy. Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ :
Thôn Đoài - Thôn Đông
Một người - Một người
Bên ấy - Bên này
Bến - Đò
Hoa Khuê Các - Bướm giang hồ
Nhà anh - Nhà em
Và cuối cùng là :
Trầu - Cau
Kết như thế thật khéo
Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất : ấy là trầu - cau! Mà trầu cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm luyến ái. Là một nhà thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Nghĩa là với cau - trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới chỉ ở dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi. Vâng, đợi chờ một vị "cứu tinh" duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn hờ kia sẽ kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa ! Nỗi khổ sở sẽ hết giày vò ! Vân vân và vân vân.
Nhưng em biết không, khi tất cả những điều kia đã thành, thì cũng là lúc nỗi tương tư bắt đầu... bị hoá giải.
Sửa lần cuối: