Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung từng viết: “Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn phải nhặt nhạnh từng mảnh vỡ, tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người”. Nhà văn - những con người bằng xương bằng thịt như bao người khác trên thế gian liệu có một phép thần thông hay chăng, mà hàn gắn lại được những đổ vỡ của cuộc đời? Đối diện với những thương tổn từ sâu trong tâm hồn người, nhà văn sẽ làm gì để từng cơn đau đớn, tuyệt vọng kia nguôi ngoai? Đối diện với ốm đau, cái chết và cả sự chia lìa, nhà văn sẽ có thể hồi sinh tất cả hay sao?
Không, nhà văn không thể xoá nhoà đi những buồn đau hay lấp đầy những mất mát của con người. Nhưng nhà văn sẽ lại là người đem cái chết ra xa khỏi họ, để người ta có thể đi qua những lần vụn vỡ, những lần thương đau. Nhà văn cho con người dũng khí để chọn lựa sự sống!
Nhà văn cứu chữa con người, trước hết bằng những sự thật. Đó là sự thật về cuộc đời và về chính bản thân của mỗi người. Như Virginia Woolf đã nói: “Văn chương không phải là liều thuốc an thần ru con người ta vào giấc ngủ uể oải mà là sắt nung bỏng rát thức tỉnh con người”. Văn chương không đẩy con người ta vào cơn mộng mị bằng những ảo ảnh về cuộc đời mà là sự soi chiếu trực diện, chân thật bản chất của thế giới. Có thể, thế giới văn chương chứa đầy những ước mơ nhưng có khi, ngập tràn nghịch cảnh, bi kịch nhưng nhất định, đó không phải là một thế giới đơn điệu, một chiều. Thế giới của văn chương là thế giới đầy giằng xé trong nội tâm của một con quỷ đội lớp người như Chí Phèo, một con quỷ luôn vẫy vùng trên lằn ranh của thiện lương và tàn độc, của một thằng rạch mặt ăn vạ “phá nát bao cảnh yên vui” và một kẻ cô đơn cùng đường luôn khắc khoải hoài nghi “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là thế giới mà một thiên tài nghệ thuật như Vũ Như Tô phải gánh chịu bi kịch của một người nghệ sĩ đơn độc sống với lý tưởng nghệ thuật rời xa thực tại để rồi trơ mắt ra nhìn giấc mộng lớn đời mình trở thành tàn tro rồi vẫn bất tin mà gào thét “Vô lý! Vô lý!” Văn chương tạo dựng một thế giới muôn hình vạn trạng trên từng trang sách, thế giới của nó vận hành với đầy những mâu thuẫn và nghịch lý thay vì minh bạch phải - trái, đúng - sai. Cuộc sống hiện lên từng trang giấy mang dáng dấp của đời thực, với vô vàn chân dung của con người, những con người bằng xương bằng thịt với mọi hỷ-nộ-ái-ố, với những khát khao lẫn tuyệt vọng, với sự thanh cao và cả những suy đồi. Thực tại và con người trong văn chương là như thế, là một sản phẩm của ngôn từ và sự sáng tạo nhưng chắc chắn không phải là những hình tượng trống rỗng, vô hồn.
Chính nhờ điều này, thay vì là những con chữ rỗng tuếch, văn chương nói như Phillipe Jacollete, đã cho người ta già đi từ đầu đến cuối bài thơ. Qua một bài thơ, một câu chuyện, con người ta như sống một cuộc đời. Mỗi lần hoà vào thế giới của văn chương là lại một lần được sống, sống những cuộc đời khác nhau. Mỗi lần bước vào trang sách là như được tái sinh, với một diện mạo, một tâm hồn mới, để trải nghiệm, để dấn thân mà ngắm nhìn cuộc đời. Sống trong trang sách, người ta có thể vỡ oà trong niềm sung sướng vì nhìn thấy những giấc mơ hoá thành hiện thực. Và cũng trong trang sách, bao giọt nước mắt đã rơi, vì hiện thực tàn khốc, vì những mộng mơ tan vỡ, vì tình yêu nhạt nhoà, vì đời người chóng vánh như một giấc chiêm bao. Để rồi, từ trong vô vàn những cảm xúc ấy, dẫu là đớn đau hay hạnh phúc, là thăng hoa hay trầm buồn, con người ta nhìn thấy thế giới này và nhìn thấy chính con người mình. Già đi mà Jacollete nói ấy, chính là sự già đi của nhận thức, không chỉ nhận thức về cuộc đời mà còn là nhận thức về bản thân của mỗi con người.
Có thể, không phải mọi độc giả cầm trên tay “Nỗi buồn chiến tranh” đều từng là những người lính, đều đã rửa máu của mình trong gió bụi nơi chiến trường như Kiên. Thế nhưng, Bảo Ninh đã dùng chính ngòi bút của mình để người đọc không chỉ nhìn thấy được bản chất chiến tranh mà hơn hết là nhìn thấy những gì chiến tranh đã để lại, không phải những miền đất chết mà là những linh hồn chết. Đi vào thế giới nội tâm của Kiên, trôi theo dòng hồi ức để soi vào những đứt gãy, những nỗi ám ảnh, những ký ức không cách nào trốn chạy và người ta hiểu được rằng, thứ chiến tranh cướp đi không phải là mạng sống mà là ý chí để sống, chiến tranh có thể buông tha cho sinh mạng con người nhưng không chối từ việc tước đoạt đi ý thức tồn tại. Những con người trở về từ chiến tranh, cũng giống như chúng ta, đi qua một cơn dư chấn ầm ĩ trong nội tâm và vĩnh viễn, không thể trở lại như ban đầu, vĩnh viễn phải sống, phải chịu đoạ đày bởi vết thương không bao giờ khép miệng kia. Người ta đọc văn chương có thể biết được sự đổ nát của thế giới sau một cuộc chiến tranh, cũng như một cơn đại dịch, nhưng quan trọng hơn hết chính là nhìn thấy được sự suy sụp của lòng người và sự lạc lối, vô định đến hoang mang trong chính tâm hồn mình.
Văn chương đem đến cho con người ta sự nhận thức, không phải để chấp nhận những gì đã có và đang có, không phải để thừa nhận một lần nữa những điều đang diễn ra. Giá trị thực sự của văn chương chính là dùng sự thật để con người ta vượt qua chính sự thật đó. Phơi bày ra trước mắt con người ta một thế giới tàn khốc với đầy những rạn nứt, nhà văn không dồn con người đến bước đường bi quan, trốn chạy hay chối bỏ nó mà muốn con người ta dũng cảm đối diện, đi qua và khắc phục nó. Nói như Aristote, bi kịch là một sự thanh lọc. Văn chương dùng hiện thực và bi kịch bên trong nó, dùng những gì con người muốn khước từ, né tránh để thanh lọc thế giới. Sự thanh lọc đó xuất phát từ cách văn chương phản tính con người bằng sự thật để rồi trở thành ngọn đèn định hướng cho con người nhìn ra những ngã rẽ mà mình có thể bước đi. Ở đó, người ta nhìn thấy vô vàn những chọn lựa, chọn lựa để sống và chết, chọn lựa để hy vọng rồi đổi thay và cả những chọn lựa để tiếp tục lụi tàn cùng thực tại tăm tối. Văn chương không giáo điều, dạy dỗ hay cưỡng cầu, ép buộc, nó cho con người ta nhìn thấy thật nhiều những khả năng còn con người thì liệu có một ai đâu, chọn lựa những điều tồi tệ?
Viết về “thế hệ mất mát” với những tiệc tùng xa hoa hoà trong điệu jazz man mác, trầm tư, Francis Scott Key Fitzgerald đã đưa người đọc bao thế hệ trở về với thập niên 20 của thế kỉ trước qua kiệt tác “Đại gia Gatsby”. Câu chuyện là cuộc chạy đua của con người với sự leo thang của bạc tiền; là những “đổi chác, bán buôn” mà cái giá để có được địa vị, quyền quý là chính hạnh phúc của cả một đời người. Con người thuộc về thời hậu chiến đã phải đánh mất mình vì những “đốm xanh” phù phiếm mà ngay cả khi “nó đã tuột khỏi tay chúng ta” thì “chúng ta cứ thế dấn bước, những con thuyền rẽ sóng ngược dòng, không ngừng trôi về quá khứ”. Mỗi người đều như Gatsby, mang trong mình những khao khát, đam mê và thậm chí là cuồng vọng để rồi rong ruổi chạy theo giấc mơ của mình trong cơn mộng du. Vậy thì, ta sẽ chọn chứ, một cuộc đời như Gatsby, một cuộc đời cứ mải miết chạy theo cái đốm xanh xa xôi, hão huyền? Ta sẽ chọn chứ, những ảo mộng đã nát tan từ dĩ vãng xa xưa? Gatsby chết đi giữa những dở dang, vỡ mộng, vậy còn ta, liệu có tiếp bước để trở thành nạn nhân từ chính những ước mơ của mình. Đó là chọn lựa của ta, ta có thể chọn như Gatsby nhưng ta cũng có quyền nhìn vào Gatsby để làm khác đi, để sống hạnh phúc hơn, trọn vẹn và ý nghĩa hơn. Bằng cách ấy, văn học đã thanh lọc ta, thanh lọc và cảm hoá từ chính những điều bi thảm nhất.
Như đã nói, văn chương muốn cứu rỗi con người, không nằm ở việc thay đổi quy luật sanh-lão-bệnh-tử, nhà văn chữa trị cho nhân gian không thể hiện ở việc cải tử hồi sinh cho con người. Sự cứu chữa của văn chương là sự cứu chữa đối với tâm hồn, với thế giới nội cảm của con người. Bởi lẽ, văn chương dù là thể loại nào, từ những bài ca dao than thân của những người lao động lam lũ đến những khúc sử thi bất hủ của Homer, từ những câu chuyện cổ tích quen thuộc với những đứa trẻ con cho đến những tác phẩm đồ sộ của Lev Tolstoi, tất cả không chỉ làm nên bởi tư tưởng của nhà văn mà cần hơn hết là tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Đó mới chính là linh hồn, là sợi dây kết nối văn chương với thế giới. Chính những tâm tư tình cảm này mà văn học mới chạm đến được đời sống nội tâm của người đọc, để cho con người ta có thể tin tưởng mà mở lòng mình ra đón nhận những sáng tác này. Văn chương đi từ tâm hồn người viết đến trái tim người đọc, xoa dịu và chữa lành những ưu tư, muộn phiền lẫn niềm đau, thương tổn. Văn chương tạo dựng được niềm tin trong lòng người, niềm tin giữa con người với thông điệp mà tác phẩm gửi gắm, từ đó phát triển thành niềm tin giữa con người đó với thế giới mà họ đang sống. Cuối cùng, văn chương tạo dựng niềm tin giữa con người với con người, nhờ sự thanh lọc, nhờ những điều tốt đẹp, nhờ hy vọng, ước mơ. Niềm tin đó trở thành động lực, giống như cách Scarlett O’hara đã luôn nói “Sau tất cả, ngày mai sẽ là một ngày mới”, một ngày mới và tất cả sẽ tốt hơn, một ngày mới và đống hoang tàn trước mắt sẽ thành quá khứ, một ngày mới - chỉ cần tin như vậy thì sẽ lại nhìn thấy khởi đầu, nhìn thấy những điều tốt đẹp. Có như vậy, con người ta can đảm chọn lựa cuộc sống dẫu có đi qua bao nhiêu biến cố, thăng trầm. Niềm tin gắn kết con người với sự sống. Bệnh tật có thể tước đoạt đi một thể chất khoẻ mạnh, có thể dày vò người ta bằng những cơn đau thể xác. Thế nhưng, chỉ cần tinh thần của con người còn có niềm tin vào những điều tốt đẹp, vào sự sống, tương lai, có niềm tin vào chính nội lực sinh tồn của mình thì sự sống vẫn ở đó. Con người có thể chết đi nhưng niềm tin và khao khát sống sẽ ở lại, để lan toả, tạo thành động lực và cũng là niềm tin cho những người còn sống mai sau.
(st)
Không, nhà văn không thể xoá nhoà đi những buồn đau hay lấp đầy những mất mát của con người. Nhưng nhà văn sẽ lại là người đem cái chết ra xa khỏi họ, để người ta có thể đi qua những lần vụn vỡ, những lần thương đau. Nhà văn cho con người dũng khí để chọn lựa sự sống!
Nhà văn cứu chữa con người, trước hết bằng những sự thật. Đó là sự thật về cuộc đời và về chính bản thân của mỗi người. Như Virginia Woolf đã nói: “Văn chương không phải là liều thuốc an thần ru con người ta vào giấc ngủ uể oải mà là sắt nung bỏng rát thức tỉnh con người”. Văn chương không đẩy con người ta vào cơn mộng mị bằng những ảo ảnh về cuộc đời mà là sự soi chiếu trực diện, chân thật bản chất của thế giới. Có thể, thế giới văn chương chứa đầy những ước mơ nhưng có khi, ngập tràn nghịch cảnh, bi kịch nhưng nhất định, đó không phải là một thế giới đơn điệu, một chiều. Thế giới của văn chương là thế giới đầy giằng xé trong nội tâm của một con quỷ đội lớp người như Chí Phèo, một con quỷ luôn vẫy vùng trên lằn ranh của thiện lương và tàn độc, của một thằng rạch mặt ăn vạ “phá nát bao cảnh yên vui” và một kẻ cô đơn cùng đường luôn khắc khoải hoài nghi “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là thế giới mà một thiên tài nghệ thuật như Vũ Như Tô phải gánh chịu bi kịch của một người nghệ sĩ đơn độc sống với lý tưởng nghệ thuật rời xa thực tại để rồi trơ mắt ra nhìn giấc mộng lớn đời mình trở thành tàn tro rồi vẫn bất tin mà gào thét “Vô lý! Vô lý!” Văn chương tạo dựng một thế giới muôn hình vạn trạng trên từng trang sách, thế giới của nó vận hành với đầy những mâu thuẫn và nghịch lý thay vì minh bạch phải - trái, đúng - sai. Cuộc sống hiện lên từng trang giấy mang dáng dấp của đời thực, với vô vàn chân dung của con người, những con người bằng xương bằng thịt với mọi hỷ-nộ-ái-ố, với những khát khao lẫn tuyệt vọng, với sự thanh cao và cả những suy đồi. Thực tại và con người trong văn chương là như thế, là một sản phẩm của ngôn từ và sự sáng tạo nhưng chắc chắn không phải là những hình tượng trống rỗng, vô hồn.
Chính nhờ điều này, thay vì là những con chữ rỗng tuếch, văn chương nói như Phillipe Jacollete, đã cho người ta già đi từ đầu đến cuối bài thơ. Qua một bài thơ, một câu chuyện, con người ta như sống một cuộc đời. Mỗi lần hoà vào thế giới của văn chương là lại một lần được sống, sống những cuộc đời khác nhau. Mỗi lần bước vào trang sách là như được tái sinh, với một diện mạo, một tâm hồn mới, để trải nghiệm, để dấn thân mà ngắm nhìn cuộc đời. Sống trong trang sách, người ta có thể vỡ oà trong niềm sung sướng vì nhìn thấy những giấc mơ hoá thành hiện thực. Và cũng trong trang sách, bao giọt nước mắt đã rơi, vì hiện thực tàn khốc, vì những mộng mơ tan vỡ, vì tình yêu nhạt nhoà, vì đời người chóng vánh như một giấc chiêm bao. Để rồi, từ trong vô vàn những cảm xúc ấy, dẫu là đớn đau hay hạnh phúc, là thăng hoa hay trầm buồn, con người ta nhìn thấy thế giới này và nhìn thấy chính con người mình. Già đi mà Jacollete nói ấy, chính là sự già đi của nhận thức, không chỉ nhận thức về cuộc đời mà còn là nhận thức về bản thân của mỗi con người.
Có thể, không phải mọi độc giả cầm trên tay “Nỗi buồn chiến tranh” đều từng là những người lính, đều đã rửa máu của mình trong gió bụi nơi chiến trường như Kiên. Thế nhưng, Bảo Ninh đã dùng chính ngòi bút của mình để người đọc không chỉ nhìn thấy được bản chất chiến tranh mà hơn hết là nhìn thấy những gì chiến tranh đã để lại, không phải những miền đất chết mà là những linh hồn chết. Đi vào thế giới nội tâm của Kiên, trôi theo dòng hồi ức để soi vào những đứt gãy, những nỗi ám ảnh, những ký ức không cách nào trốn chạy và người ta hiểu được rằng, thứ chiến tranh cướp đi không phải là mạng sống mà là ý chí để sống, chiến tranh có thể buông tha cho sinh mạng con người nhưng không chối từ việc tước đoạt đi ý thức tồn tại. Những con người trở về từ chiến tranh, cũng giống như chúng ta, đi qua một cơn dư chấn ầm ĩ trong nội tâm và vĩnh viễn, không thể trở lại như ban đầu, vĩnh viễn phải sống, phải chịu đoạ đày bởi vết thương không bao giờ khép miệng kia. Người ta đọc văn chương có thể biết được sự đổ nát của thế giới sau một cuộc chiến tranh, cũng như một cơn đại dịch, nhưng quan trọng hơn hết chính là nhìn thấy được sự suy sụp của lòng người và sự lạc lối, vô định đến hoang mang trong chính tâm hồn mình.
Văn chương đem đến cho con người ta sự nhận thức, không phải để chấp nhận những gì đã có và đang có, không phải để thừa nhận một lần nữa những điều đang diễn ra. Giá trị thực sự của văn chương chính là dùng sự thật để con người ta vượt qua chính sự thật đó. Phơi bày ra trước mắt con người ta một thế giới tàn khốc với đầy những rạn nứt, nhà văn không dồn con người đến bước đường bi quan, trốn chạy hay chối bỏ nó mà muốn con người ta dũng cảm đối diện, đi qua và khắc phục nó. Nói như Aristote, bi kịch là một sự thanh lọc. Văn chương dùng hiện thực và bi kịch bên trong nó, dùng những gì con người muốn khước từ, né tránh để thanh lọc thế giới. Sự thanh lọc đó xuất phát từ cách văn chương phản tính con người bằng sự thật để rồi trở thành ngọn đèn định hướng cho con người nhìn ra những ngã rẽ mà mình có thể bước đi. Ở đó, người ta nhìn thấy vô vàn những chọn lựa, chọn lựa để sống và chết, chọn lựa để hy vọng rồi đổi thay và cả những chọn lựa để tiếp tục lụi tàn cùng thực tại tăm tối. Văn chương không giáo điều, dạy dỗ hay cưỡng cầu, ép buộc, nó cho con người ta nhìn thấy thật nhiều những khả năng còn con người thì liệu có một ai đâu, chọn lựa những điều tồi tệ?
Viết về “thế hệ mất mát” với những tiệc tùng xa hoa hoà trong điệu jazz man mác, trầm tư, Francis Scott Key Fitzgerald đã đưa người đọc bao thế hệ trở về với thập niên 20 của thế kỉ trước qua kiệt tác “Đại gia Gatsby”. Câu chuyện là cuộc chạy đua của con người với sự leo thang của bạc tiền; là những “đổi chác, bán buôn” mà cái giá để có được địa vị, quyền quý là chính hạnh phúc của cả một đời người. Con người thuộc về thời hậu chiến đã phải đánh mất mình vì những “đốm xanh” phù phiếm mà ngay cả khi “nó đã tuột khỏi tay chúng ta” thì “chúng ta cứ thế dấn bước, những con thuyền rẽ sóng ngược dòng, không ngừng trôi về quá khứ”. Mỗi người đều như Gatsby, mang trong mình những khao khát, đam mê và thậm chí là cuồng vọng để rồi rong ruổi chạy theo giấc mơ của mình trong cơn mộng du. Vậy thì, ta sẽ chọn chứ, một cuộc đời như Gatsby, một cuộc đời cứ mải miết chạy theo cái đốm xanh xa xôi, hão huyền? Ta sẽ chọn chứ, những ảo mộng đã nát tan từ dĩ vãng xa xưa? Gatsby chết đi giữa những dở dang, vỡ mộng, vậy còn ta, liệu có tiếp bước để trở thành nạn nhân từ chính những ước mơ của mình. Đó là chọn lựa của ta, ta có thể chọn như Gatsby nhưng ta cũng có quyền nhìn vào Gatsby để làm khác đi, để sống hạnh phúc hơn, trọn vẹn và ý nghĩa hơn. Bằng cách ấy, văn học đã thanh lọc ta, thanh lọc và cảm hoá từ chính những điều bi thảm nhất.
Như đã nói, văn chương muốn cứu rỗi con người, không nằm ở việc thay đổi quy luật sanh-lão-bệnh-tử, nhà văn chữa trị cho nhân gian không thể hiện ở việc cải tử hồi sinh cho con người. Sự cứu chữa của văn chương là sự cứu chữa đối với tâm hồn, với thế giới nội cảm của con người. Bởi lẽ, văn chương dù là thể loại nào, từ những bài ca dao than thân của những người lao động lam lũ đến những khúc sử thi bất hủ của Homer, từ những câu chuyện cổ tích quen thuộc với những đứa trẻ con cho đến những tác phẩm đồ sộ của Lev Tolstoi, tất cả không chỉ làm nên bởi tư tưởng của nhà văn mà cần hơn hết là tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Đó mới chính là linh hồn, là sợi dây kết nối văn chương với thế giới. Chính những tâm tư tình cảm này mà văn học mới chạm đến được đời sống nội tâm của người đọc, để cho con người ta có thể tin tưởng mà mở lòng mình ra đón nhận những sáng tác này. Văn chương đi từ tâm hồn người viết đến trái tim người đọc, xoa dịu và chữa lành những ưu tư, muộn phiền lẫn niềm đau, thương tổn. Văn chương tạo dựng được niềm tin trong lòng người, niềm tin giữa con người với thông điệp mà tác phẩm gửi gắm, từ đó phát triển thành niềm tin giữa con người đó với thế giới mà họ đang sống. Cuối cùng, văn chương tạo dựng niềm tin giữa con người với con người, nhờ sự thanh lọc, nhờ những điều tốt đẹp, nhờ hy vọng, ước mơ. Niềm tin đó trở thành động lực, giống như cách Scarlett O’hara đã luôn nói “Sau tất cả, ngày mai sẽ là một ngày mới”, một ngày mới và tất cả sẽ tốt hơn, một ngày mới và đống hoang tàn trước mắt sẽ thành quá khứ, một ngày mới - chỉ cần tin như vậy thì sẽ lại nhìn thấy khởi đầu, nhìn thấy những điều tốt đẹp. Có như vậy, con người ta can đảm chọn lựa cuộc sống dẫu có đi qua bao nhiêu biến cố, thăng trầm. Niềm tin gắn kết con người với sự sống. Bệnh tật có thể tước đoạt đi một thể chất khoẻ mạnh, có thể dày vò người ta bằng những cơn đau thể xác. Thế nhưng, chỉ cần tinh thần của con người còn có niềm tin vào những điều tốt đẹp, vào sự sống, tương lai, có niềm tin vào chính nội lực sinh tồn của mình thì sự sống vẫn ở đó. Con người có thể chết đi nhưng niềm tin và khao khát sống sẽ ở lại, để lan toả, tạo thành động lực và cũng là niềm tin cho những người còn sống mai sau.
(st)