Truyện ngắn là gì? Lịch sử hình thành và phân loại

Truyện ngắn là gì?​

Truyện ngắn là một tác phẩm văn xuôi hư cấu có thể được đọc trong một lần ngồi — thường là từ 20 phút đến một giờ. Không có độ dài tối đa, nhưng truyện ngắn trung bình là 1.000 đến 7.500 từ, với một số ngoại truyện lên đến 10.000 hoặc 15.000 từ. Với khoảng 10 đến 25 trang, điều đó làm cho truyện ngắn ngắn hơn nhiều so với tiểu thuyết. Một đoạn truyện ngắn hơn 1.000 từ được coi là “truyện siêu ngắn” hoặc “tiểu thuyết chớp nhoáng” và bất kỳ thứ gì dưới 300 từ được gọi là “tiểu thuyết vi mô”.

Các yếu tố chính của một truyện ngắn là gì?​


Bối cảnh của một câu chuyện ngắn thường được đơn giản hóa (một thời gian và địa điểm), và một hoặc hai nhân vật chính có thể được giới thiệu mà không có đầy đủ thông tin cơ bản. Trong định dạng ngắn gọn, cô đọng này, mọi từ ngữ và chi tiết câu chuyện đều phải làm việc chăm chỉ hơn!

Truyện ngắn thường tập trung vào một cốt truyện duy nhất thay vì nhiều tình tiết phụ, như bạn có thể thấy trong tiểu thuyết. Một số câu chuyện tuân theo một mạch tường thuật truyền thống, với phần giải thích (mô tả) ở đầu, hành động gia tăng, cao trào (thời điểm cao điểm của xung đột hoặc hành động) và giải quyết ở phần cuối. Tuy nhiên, tiểu thuyết ngắn đương đại có nhiều khả năng bắt đầu ở giữa các pha hành động ( theo kiểu truyền thống ), lôi cuốn độc giả vào một cảnh kịch tính.

Trong khi những câu chuyện ngắn trước đây thường xoay quanh chủ đề trung tâm hoặc bài học đạo đức, thì ngày nay người ta thường tìm thấy những câu chuyện có kết thúc mơ hồ. Loại câu chuyện chưa được giải quyết này mời các bạn đọc kết thúc mở và gợi ý cách hiểu phức tạp hơn về thực tế và hành vi con người.

Thể loại truyện ngắn rất thích hợp để thử nghiệm về phong cách và hình thức viết văn xuôi, nhưng hầu hết các tác giả truyện ngắn vẫn cố gắng tạo ra một tâm trạng riêng biệt bằng cách sử dụng các phương tiện văn học cổ điển (điểm nhìn, hình ảnh, điềm báo, ẩn dụ, sự lựa chọn / lựa chọn từ ngữ, giọng điệu, và cấu trúc câu).

Lịch sử của truyện ngắn là gì?​


Kể chuyện dạng ngắn có thể bắt nguồn từ những truyền thuyết, thần thoại, văn hóa dân gian và truyện ngụ ngôn cổ xưa được tìm thấy trong các cộng đồng trên khắp thế giới. Một số câu chuyện trong số này tồn tại dưới dạng văn bản, nhưng nhiều câu chuyện được truyền miệng. Vào thế kỷ 14 , những câu chuyện nổi tiếng nhất bao gồm Nghìn lẻ một đêm (truyện dân gian Trung Đông của nhiều tác giả, sau này được gọi là Những đêm Ả Rập ) và Câu chuyện Canterbury (của Geoffrey Chaucer).

Mãi cho đến đầu thế kỷ 19, các tuyển tập truyện ngắn của các tác giả cá nhân mới xuất hiện thường xuyên hơn trên báo in. Đầu tiên, đó là việc xuất bản những câu chuyện cổ tích Anh em nhà Grimm, sau đó là tiểu thuyết Gothic của Edgar Allen Poe, và cuối cùng là những câu chuyện của Anton Chekhov, người thường được coi là người sáng lập ra truyện ngắn hiện đại.

Sự phổ biến của truyện ngắn đã tăng lên cùng với sự gia tăng của tạp chí in và các tạp chí. Các biên tập viên báo và tạp chí bắt đầu xuất bản các câu chuyện như một trò giải trí, tạo ra nhu cầu về những câu chuyện ngắn, có cốt truyện và có sức hấp dẫn đại chúng. Vào đầu những năm 1900, The Atlantic Monthly , The New Yorker và Harper's Magazine đã trả rất nhiều tiền cho những truyện ngắn thể hiện nhiều kỹ thuật văn học hơn. Kỷ nguyên vàng của xuất bản đã tạo ra truyện ngắn như chúng ta biết ngày nay.

Các loại truyện ngắn​


Truyện ngắn có đủ thể loại: hành động, phiêu lưu, tiểu sử, hài, tội phạm, trinh thám, chính kịch, viễn tưởng, ngụ ngôn, giả tưởng, lịch sử, kinh dị, bí ẩn, triết học, chính trị, lãng mạn, châm biếm, khoa học viễn tưởng, siêu nhiên, kinh dị, bi kịch, và phương Tây. Dưới đây là một số loại truyện ngắn phổ biến, phong cách văn học và tác giả liên quan đến chúng:

1/ Truyện ngụ ngôn: Một câu chuyện cung cấp một bài học đạo đức, thường sử dụng động vật, sinh vật thần thoại, sức mạnh của tự nhiên hoặc các vật thể vô tri vô giác trở nên sống động (Anh em nhà Grimm, Aesop)

2/ Tiểu thuyết chớp nhoáng: Một câu chuyện từ 5 đến 2.000 từ thiếu cấu trúc cốt truyện truyền thống hoặc sự phát triển nhân vật và thường được đặc trưng bởi sự bất ngờ hoặc sự xoay chuyển của số phận (Lydia Davis)

3/ Mini saga: Một loại tiểu thuyết sử dụng chính xác 50 từ (!) Để kể một câu chuyện

4/ Làm mờ nét ảnh: Cảnh mô tả hoặc thời điểm xác định không chứa cốt truyện hoặc tường thuật hoàn chỉnh, nhưng tiết lộ một chi tiết quan trọng về nhân vật hoặc ý tưởng (Sandra Cisneros)

5/ Chủ nghĩa hiện đại: Thử nghiệm với hình thức, phong cách và trình tự thời gian (độc thoại nội tâm, dòng ý thức) để nắm bắt trải nghiệm của một cá nhân (James Joyce, Virginia Woolf)

6/ Chủ nghĩa hậu hiện đại: Sử dụng những người kể chuyện phân mảnh, nghịch lý hoặc không đáng tin cậy để khám phá mối quan hệ giữa tác giả, người đọc và văn bản (Donald Barthelme, Jorge Luis Borges)

7/ Chủ nghĩa hiện thực kỳ diệu/kì ảo: Kết hợp giữa câu chuyện hoặc bối cảnh hiện thực với các yếu tố của chủ nghĩa siêu thực, giấc mơ hoặc giả tưởng (Gabriel García Márquez)

8/ Chủ nghĩa tối giản: Văn bản được đặc trưng bởi sự ngắn gọn, ngôn ngữ đơn giản và thiếu độ phân giải của cốt truyện (Raymond Carver, Amy Hempel)

Một số truyện ngắn nổi tiếng​

  1. “Trái tim kể về câu chuyện” (1843) - Edgar Allen Poe
  2. “Chiếc vòng cổ” (1884) - Guy de Maupassant
  3. “Hình nền màu vàng” (1892) - Charlotte Perkins Gilman
  4. “Câu chuyện của một giờ” (1894) - Kate Chopin
  5. “Món quà của các đạo sĩ” (1905) - O. Henry
  6. “Người chết”, “Người Dublin” (1914) - James Joyce
  7. “Bữa tiệc trong vườn” (1920) - Katherine Mansfield
  8. “Những ngọn đồi như những chú voi trắng” (1927), “Những ngọn tuyết của Kilimanjaro” (1936) - Ernest Hemingway
  9. “Xổ số” (1948) - Shirley Jackson
  10. “Lamb to the Slaughter” (1953) - Roald Dahl
  11. “Một ông già có đôi cánh to lớn” (1955) - Gabriel García Márquez
  12. “Sonny's Blues” (1957) - James Baldwin
  13. “Một người đàn ông tốt thật khó tìm” (1953), “Mọi thứ trỗi dậy phải hội tụ” (1961) - Flannery O'Connor

Một số tuyển tập truyện ngắn phổ biến​

  1. Những điều họ đã thực hiện - Tim O'Brien
  2. Mê cung - Jorge Luis Borges
  3. Liễu mù, Người đàn bà đang ngủ - Haruki Murakami
  4. Chín câu chuyện - JD Salinger
  5. Những gì chúng ta nói về khi chúng ta nói về tình yêu - Raymond Carver
  6. Những câu chuyện về John Cheever - John Cheever
  7. Chào mừng đến với Ngôi nhà Khỉ - Kurt Vonnegut
  8. Những câu chuyện hoàn chỉnh - Dorothy Parker
  9. Thông dịch viên của Maladies - Jhumpa Lahiri
  10. Đột nhiên có tiếng gõ cửa - Etgar Keret

Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn​

Cùng một thể loại văn xuôi tự sự như tiểu thuyết, truyện ngắn vừa có những nét chung lại có những nét riêng của mình. Đặc trưng chung của thể hiện đầu tiên ở cốt truyện. Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Truyện ngắn là thể loại có cốt truyện nhưng nhìn chung biến hóa hơn tiểu thuyết. Truyện ngắn có nhân vật, được thể hiện qua lời kể, trần thuật. Cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết đều chú trọng vai trò của người kể chuyện. Song điểm khác biệt dễ thấy nhất giữa truyện ngắn và tiểu thuyết là truyện ngắn có hình thức kể chuyện nhỏ – tức là “truyện ngắn”. Nó chỉ đề cập đến một vài biến cố riêng của cuộc sống con người. Số lượng nhân vật cũng không nhiều, vì hầu hết các truyện ngắn xây dựng rất ít các sự kiện, ít biến cố. Tình tiết trong truyện ngắn vì thế thường được lựa chọn rất kỹ, chỉ ghi lại những tình huống nào tiêu biểu nhất, đủ sức cho người đọc hình dung cả quá trình sống của nhân vật. Cũng vì vậy mà “dung lượng hiện thực trong cuộc sống phản ánh có mức độ” (Lê Tư Chỉ, Để phân tích truyện ngắn, NXB Trẻ, 1996, tr.19).

Dựa vào cốt truyện, có thể chia làm hai loại truyện. Truyện không có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất mờ nhạt): do chủ ý nghệ thuật của nhà văn chỉ nhằm thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trong mối liên hệ với hoàn cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng, không có sự kiện gay cấn, thời gian cụ thể, thậm chí không có đầu đuôi (truyện ngắn Thạch Lam). Truyện ngắn có cốt truyện rất chú ý xây dựng những tình tiết, sự kiện bộc lộ tính cách của nhân vật và thúc đẩy hướng phát triển, vận động của mạch truyện. Bản thân cốt truyện là hệ thống các sự kiện, được chia theo lớp lang từ đầu đến cuối truyện. Các sự kiện càng gay cấn, nổi bật càng tạo kịch tính, sức hấp dẫn cho truyện (CHÍ PHÈO – Nam Cao).

Về dung lượng:​


Truyện ngắn có dung lượng nhỏ, ngắn gọn mà cô đúc nên có sức ám ảnh lớn. Nó tập trung vào một hoặc một vài biến cố trong một không gian, thời gian nhất định, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và sự liên tưởng cho người đọc. Ví dụ : Truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc dịch ra tiếng Việt chỉ hai trang sách, được viết dưới hình thức một bức thư kể về một sự kiện là tác giả bị nhận nhầm là Khải Định. Cốt truyện không có gì, sự kiện đơn giản, dung lượng rất ngắn nhưng truyện lại có sức công phá lớn, tác động mạnh mẽ vào ý thức, khêu gợi trí tưởng tượng của người đọc để đặt ra vấn đề chính trị – xã hội, vấn đề dân tộc, vấn đề đấu tranh….

Đề tài,
nội dung truyện ngắn có thể lấy ở nhiều mặt của cuộc sống, nhiều vấn đề có tính chất thời sự xã hội. Phần lớn là vấn đề đời tư cá nhân, có khi chỉ là khoảnh khắc trong đời tư đó. Việc lựa chọn đề tài, phản ánh nội dung trong tác phẩm chịu sự chi phối bởi “nhãn quan” nhà văn, trong đó xác lập “điểm nhìn” riêng cho mình là quan trọng hơn cả. Nhà văn tiến bộ luôn đứng trên mọi quan hệ giai cấp, mọi sự ràng buộc của hệ tư tưởng, nói lên tiếng nói lẽ phải của chân lý, cuộc đời. Cảm hứng thế sự chi phối âm vang, độ lắng đọng của truyện ngắn trong dòng thời gian, trong lòng người đọc. Những truyện ngắn trường tồn mãi mãi khi nó âm ỉ bên trong những tiếng nói thầm kín của con người, những khát vọng của mọi thời đại.

Về kết cấu, tuy dung lượng nhỏ nhưng truyện ngắn có thể có những kết cấu linh hoạt. Kết cấu truyện ngắn không gồm không gian, thời gian nhiều tầng bậc, nhiều tuyến, mà được tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. Truyện ngắn có thể có các kiểu kết cấu sau đây:

- Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương ứng): Chí phèo (Nam Cao).

- Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo thời gian, theo diễn biến của dòng sự kiện: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)

- Kết cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật (NV), làm sáng rõ nội tâm NV và tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam Cao)

- Kết cấu đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa điểm khác nhau trong cùng một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả năng mở rộng dung lượng cho tác phẩm: Bức tranh (Nguyễn Minh Châu).

- Kết cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện đứng ra ngoài, đóng vai trò là đạo diễn để tổ chức diễn biến câu chuyện qua lời kể, qua đó hoàn thiện chân dung NV: Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu).

- Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết còn để ngỏ, mở ra những khả năng liên tưởng rộng lớn: CHÍ PHÈO (Nam Cao) Vợ nhặt (Kim Lân).

Truyện ngắn đề cập đến mọi đề tài phong phú, đa dạng, chạm đến mọi ngóc ngách đời sống con người. Trên cùng một đề tài, mỗi nhà văn lại có cách khai thác khác nhau, đem lại sắc thái riêng cho tác phẩm của mình. Cùng viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Ngô Tất Tố đề cập đến sự bần cùng hóa, phá sản về vật chất của họ; còn ngòi bút Nam Cao lại xoáy vào sự tha hóa về nhân cách, phá sản về tinh thần ở những con người ấy.

Nhân vật truyện ngắn ít hơn tiểu thuyết và thường bắt buộc phải được xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. Nhân vật phải được đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, vừa mang tính chung phổ quát vừa mang tính riêng độc đáo. Trong truyện ngắn, nhân vật là một mảnh nhỏ của thế giới, là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người, phát ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp cho tư tưởng nhà văn.

Nhân vật trong truyện ngắn đa phần được khắc họa bằng nội tâm chứ ít khi thông qua sự đối thoại như văn bản kịch. Nội tâm của nhân vật trong truyện ngắn là mạch chỉ xuyên suốt, quyết định cấu chốt của cốt truyện. Cốt truyện được xây dựng liền mạch với sự phát triển tâm trạng, nó “chủ yếu là nhận ra cái gì, vì vậy nó thường kết thúc theo lối chấm phá”. Kết cấu truyện ngắn cũng không chia thành nhiều thành tố phức tạp. Nó không có kết cấu chương hồi, mà chủ yếu là sự đan bệnh các chi tiết. Chi tiết là nơi gởi gắm nhiều nhất tư tưởng của nhà văn trong bất kỳ truyện ngắn nào. Nội dung của truyện ngắn thể hiện qua hệ thống chi tiết. Các chi tiết có thể xuất hiện nhiều lần, lặp lại có tác dụng nhấn mạnh chủ ý nhà văn. Có những tác phẩm rất nhiều chi tiết, các chi tiết chính được các chi tiết phụ tô bật ý nghĩa. Đối với mỗi nhà văn, việc lựa chi tiết trong truyện ngắn là hết sức cần thiết. “Ý thức về chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn là sức sống cảm quan thẩm mỹ đối với người cầm bút. Do dung lượng truyện ngắn hạn chế, nên sự tuyển dụng chi tiết đưa vào tác phẩm phục vụ cho chủ đề, cho tư tưởng chung, cho việc khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật .v.v.. là trách nhiệm, tài năng của nhà văn” (Phùng Quý Nhâm, Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ, 1991, tr.83).

Về điểm nhìn và phương thức kể chuyện:​


Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn nghệ thuật được xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ… Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.

Phương thức kể chuyện, trong truyện ngắn, người ta thường dùng nhiều cách kể chuyện. Các nhà văn thường thay đổi cách kể và có thể có các hình thức kể hỗn hợp.

Có hai hình thức phổ biến là:

+ Tường thuật lại quá trình, diễn biến sự việc: Vợ nhặt (Kim Lân)
+ Miêu tả lại diễn biến sự kiện: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc)

Để nhận thức phương thức kể chuyện, người ta căn cứ vào các tình huống kể chuyện:

+ Tình huống khách quan: Tác giả đứng bên ngoài kể lại điều xảy ra: Chiếc lá cuối cùng (Ohenry)
+ Tình huống chủ quan: Tác giả hoặc người kể chuyện tự đóng vai trò là nhân vật chính của tác phẩm; kể lại những sự kiện, hành động, việc làm, ý nghĩa hoặc mối quan hệ người – người, hoặc phân tích, bình luận chung.

Cũng cần chú ý đến quan điểm của người trần thuật trong truyện ngắn. Quan điểm đó thể hiện trong cách kể, nhưng cũng có khi thái độ bề mặt qua ngôn ngữ lại đánh lừa ta (CHÍ PHÈO – Nam Cao). Truyện ngắn cũng thường có viễn cảnh – khung cảnh được mở ra trong tương lai mà qua tác phẩm người đọc phát hiện hoặc cảm nhận được.

Về cách xây dựng tình huống:​


Tình huống truyện là “cái tình thế của câu chuyện”, là cảnh huống chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, xung đột hoặc những khả năng tiềm tàng để cốt truyện diễn tiến, phát triển, nhân vật bộc lộ tính cách.

Tình huống truyện có vai trò hết sức quan trọng, được ví như “cái chìa khóa vận hành cốt truyện”. Từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.

Tình huống là thời điểm, khoảnh khắc nhất định trong tác phẩm, ở đó tập trung điểm nút chủ đạo trong tác phẩm của nhà văn. Tạo tình huống là một đặc điểm thi pháp truyện ngắn. Do dung lượng nhỏ, truyện ngắn buộc phải tìm đến một tình huống – tức là một khoảnh khắc đặc biệt trong đời sống – để thể hiện tập trung mối quan hệ con người, bật sáng tư tưởng của bản thân tác giả. Truyện ngắn có thể có một hay nhiều tình huống, tạo thành một hệ thống.

Các kiểu tình huống truyện tiêu biểu là: tình huống nhận thức, tình huống tâm trạng, tình huống hành động. Tình huống TN thường rất độc đáo, ấn tượng, tạo hiệu quả thẩm mĩ cao.

Chi tiết trong truyện ngắn hay tiểu thuyết đều nhằm bộc lộ tính cách, tâm tư truyện ngắn, đan dệt nên các tình huống truyện, đều cùng có hai loại chi tiết: Chi tiết trung tâm và chi tiết phụ trợ. Nhưng chi tiết ở truyện ngắn thường ẩn chứa dung lượng phản ánh rất lớn. Cũng có nghĩa là tính cô đọng, hàm súc và tượng trưng của chi tiết cao. Một chi tiết nổi bật có thể gợi cho người đọc liên tưởng đến cả một trạng thái nhân sinh xã hội, suy rộng ra bề sâu, bề xa của nội dung phản ánh.

Ngôn ngữ truyện ngắn thường cô đọng, súc tích. Văn phong trong truyện ngắn đóng vai trò quan trọng, tạo nên phong cách riêng của nhà văn. Giọng văn quyết định hình thức tổ chức kết cấu truyện và nội dung tư tưởng. Thể tài truyện ngắn cũng chịu sự quy định của văn phong. Lời văn bộc lộ, giải bày, suy ngẫm về thế thái nhân tình thì hình thành truyện ngắn trầm tư, thế sự; lời văn trần thuật, hoạt kê tạo nên thể tài châm biến, đả kích; lời văn phân tích, mổ xẻ về những vấn đề thời sự xã hội thì tính hiện thực cao. Vì vậy, “lời văn là yếu tố quan trọng cho nghệ thuật viết truyện ngắn. Lời kể và cách kể chuyện là những điều người viết truyện ngắn đặc biệt chú ý khai thác và xử lý, nhằm đạt hiệu quả mong muốn” (Lại Nguyên Ân, Từ điển Văn học, Bộ mới, NXB Thế giới, 2004, tr.1846).

Với những đặc trưng trên, truyện ngắn là một thể loại có sức sống bền lâu, được nhiều độc giả yêu chuộng. Nó luôn không ngừng phát triển để càng ngày càng khẳng định giá trị riêng biệt mà không một thể loại nào có được.

Những nhận định và kinh nghiệm viết truyện ngắn.​


1. Tô Hoài: Người viết truyện ngắn phải rèn luyện đến từng dấu phẩy. Và anh chỉ viết được những gì anh hiểu khá kỹ càng. Có thể nói truyện ngắn đòi hỏi nhà văn phải lương thiện rất mực. Tôi cho rằng truyện ngắn là một thể văn tập cho người viết nhiều nết quý lắm. Chỉ với truyện ngắn, người ta mới biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Nhà văn mình thường yếu, không tạo được phong cách riêng. Truyện ngắn đòi hỏi hoàn thiện, ở đây ta được rèn luyện đến việc dùng từng dấu phẩy…Nếu ký nặng về phần sự thực để minh hoạ ý thì truyện ngắn đã đứng hẳn ở phía của người sáng tạo. Một truyện ngắn hay, không chỉ có ý nghĩa ở chủ đề tư tưởng và nhân vật mà từng câu, từng chữ của truyện ấy sẽ tạo nên nội dung cái hay cho chủ đề tư tưởng và nhân vật. Mỗi chữ có sức mạnh riêng đồng thời sức mạnh hoà chung cả hai phía ấy dựng nên hồn chữ, hồn câu toàn bài…

2. Nguyễn Minh Châu: Tôi thường hình dung thể loại truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường ván trên cái khoảng gỗ tron tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc. Nói đến truyện ngắn là nói đến nghệ thuật của bố cục và sự hàm súc. Kỹ thuật viết truyện ngắn– nó có gì giống như kỹ thuật của người làm pháo: dồn nén tư tưởng vào trong một cái cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên. Cho nên những người viết truyện ngắn bậc thầy đều cao tay trong kỹ thuật dựng truyện và tinh xảo trong ngôn ngữ.

3. “Hay niềm nở nhưng cũng hãy cảnh giác với những chư và cách đặt câu lúc nào cũng đứng chực sẵn , lấp ló ngay đầu ngòi bút”

4. Maugham: “Truyện ngắn là sự trình bày một sự kiện theo trình tự của câu chuyện diễn biến hoăc theo trình tự của tâm tình”

5. Pauxtopki: “Truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn , trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì đó bình thường, và cái bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường”

6. Pauxtopki: “Nếu như thơ có những vần luât chặt chẽ , chính xác thì theo tôi hiểu văn xuôi cũng phải có nhịp điệu của nó”

7. Varonin: “Cả tư tưởng , cả tính cách nhân vật cũng chưa làm nên truyện ngắn thực thụ. Còn phải nói cái này nữa: giọng điệu, cái nhạc tính của tâm trạng, cái khiến cho người đọc không ngừng nảy sinh những liên tưởng , những cảm xúc , thiếu nó, không thể có nghệ thuật”

8. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người

9. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó

10. Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ ngoài kia thoát ra từ những kiếp lầm than

11. Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân

12. Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra ra

13. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học

14. Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách thời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của quá trình nuôi dưỡng cảm hứng thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn sinh động, thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người. Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thật sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi chính sức sống lâu bền bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp 1 giai cấp một thời đại thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại có ý nghĩa nhân loại vĩnh cửu sống mãi với thời gian

15. Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời

16. Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy là cuộc sống – trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu bực bội tuổi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại

17. Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có

18. Nghệ thuật luôn vận động và phát triển trong sự ràng buộc tự nhiên với đời sống xã hội. Những giá trị nghệ thuật chân chính từ xưa tới nay đều là sáng tác bắt rễ sâu xa trong mảnh đất thực tế của thời đại mình. Những đỉnh cao nghệ thuật trong bất kỳ một nền văn học nào cũng đều được xây cất trên nền tảng vững chắc của thực tại cuộc sống.

19. Phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn chúng ta bóc đi những cái không phải của bản thân anh ta và tất cả những thứ mà anh ta giống với người khác.

20. Văn như con người của nó, văn thâm hậu thì con người nó trầm mà tỉnh, văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa, văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản, văn hùng hồn thì con người nó cương và nhanh, văn chuyên sâu thì con người nó thuần túy mà đứng đắn.

21. Phải Chăng Anh chưa bao giờ đọc hàng giấy biết kín mà có có cảm giác rằng anh cũng có thể viết không kém và đúng nguyên như thế cũng nên, vì trong ấy không có gì là đặc sắc riêng biệt. Nhưng liền ngay đó anh bắt gặp một mẩu truyện ngắn, một bức phác thảo, một vài dòng thôi và anh cảm thấy khác hẳn, anh không thể nói được như thế và có thể là hay hơn hoặc kém hơn, nhất định là phải khác, bởi vì muốn nói được như thế, muốn bắt đúng cái nốt ấy thì phải có một thanh quản tổ chức đúng như thế, cũng giống như chim ấy. Đó là nét riêng biệt chủ yếu của một tài năng độc đáo và đầy sức sống.

22. Nếu như đó là một nhà văn cũ đã quen thuộc thì câu hỏi không phải là anh ấy là người như thế nào mà sẽ là: nào anh có thể cho tôi thêm một điều gì mới– Một nhà văn lớn quyết không thể chỉ có một con dấu

23. Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung

24. Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của chính mình Cái giọng riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác

25. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy Nó đòi hỏi phải có phong cách tức là phải có nét gì đó rất mới rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình.

26. Nhà văn Nga M.Gorky có nói: ” nghệ sĩ là con người biết khai thác những ấn tượng riêng – chủ quan – của mình, tìm thất trong những ấn tượng đó cái có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức riêng.”

27. “ Trong một nhân tài thì một phần mười là thiên bẩm và chín phần mười là nước mắt và mồ hôi”.

28. Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người đọc bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, nhưng việc ai cũng biết cả rồi”.

29. Bùi Hiển: Truyện ngắn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời một con người mà dựng lên. Có khi nhân vật đặt trước một vấn đề phải băn khoăn, suy nghĩ, lựa chọn, quyết định. Có khi chỉ là một cảnh sống làm việc bình thường, trong đó nhân vật biểu lộ ý chí tình cảm của mình. Có khi có những hành động mãnh liệt những tình tiết éo le. Có khi chỉ là một tâm trạng, một nỗi vui buồn, một ý tình chớm nở. Nhưng phải chọn khoảnh khắc mà nhân vật thể hiện đầy đủ nhất (trong khía cạnh cần thể hiện)

30. Nguyên Ngọc: Truyện ngắn mang rất rõ cái chất của từng người viết, nhất là cái chất quả quyết, đột ngột. Viết truyện ngắn phải có nghề lắm. Vả lại, phải viết về những cái mới, hững cái không dễ thấy, nhưng ở chiều sâu của nó, cuộc đời đang đặt ra.

31. Nguyễn Thành Long: Truyện ngắn phải mang dấu ấn của tác giả biểu hiện sự tồn tại của tác giả. Dấu ấn ấy trước hết là tấm lòng đằm thắm của anh sau đó là bút pháp, giọng nói, nhịp điệu câu chuyện của anh, những “cái áo”, “làn da” của tấm lòng tác giả. Nếu không có gì để nói, làm sao anh nâng nổi ngòi bút của anh cho được.

Nhà văn phải luôn luôn để ý, ghi nhạn ngẫm nghĩ. Bắt tay một người con gái, ta không thể nói vắn tắt: “Tôi bắt tay cô ta”. Bàn tay ấy nồng ấm, hay lạnh, hay hờ hững, hay trơn như lươn.

32. Nguyễn Quang Sáng: Viết truyện ngắn là chơi bố cục, thú lắm. Theo tôi quan niệm, truyện ngắn phải có “chuyện” tức có thể kể lại cho người khác nghe được. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ, hấp dẫn. Yêu cầu bố cục đặt ra từ đấy. Học các nhà văn nước ngoài, truyện ngắn nước ngoài cũng trông vào bố cục. Như Môpatxăng, như truyện ngắn Nga, toàn là bố cục khiếp cả.

33. Nguyễn Công Hoan: Khi tôi thấy một hiện tượng (một câu nói, một cảnh, một việc) làm cho tôi xúc động, nếu bản thân hiện tượng ấy chưa thành truyện ngắn được, vì nó chỉ có thân mà chưa có kết, thì lập tức thói quen nghĩ truyện ngắn của tôi kết ngay dược truyện ấy. Lúc bấy giờ, tuỳ theo cái kết tôi vừa nghĩ ra để tâm vấn đề nói vui hay thảm, chua chát hay nực cười, tôi phỏng theo hiện tượng ấy mà sáng tạo ra truyện, theo hướng vấn đề ấy. Khi một hiện tượng chỉ gói ghém một ý hay thì tôi dùng hiện tượng ấy làm kết một truyện. Ngay lập tức, câu chuyện tưởng tượng, bố trí sẵn sàng theo cái kết ấy, hiện ra trong óc tôi như mở gói ấy cho tôi trong thấy
 
Sửa lần cuối:
Từ khóa Từ khóa
tác phẩm văn xuôi hư cấu truyện ngắn là gì truyện ngắn nổi tiếng tuyển tập truyện ngắn phổ biến yếu tố chính của một truyện ngắn đặc trưng cơ bản của truyện ngắn
  • Like
Reactions: Vanhoctre
980
1
1
Truyện ngắn (TN) là hình thức tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loại truyên ngắn bao gồm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi… nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ.

Tác phẩm bao giờ cũng tồn tại trong những hình thức thể loại nhất định. Lý luận văn học đã mặc định “không có tác phẩm nào tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của thể loại”. Truyện ngắn cũng là một thể loại tác phẩm phổ biến, nên có những đặc trưng riêng của nó.

Truyện ngắn thiên về lối kể kết hợp giữa sự thật đời sống với khả năng hư cấu, tưởng tượng. Khác với tiểu thuyết về dung lượng, truyện ngắn “tập trung mô tả một mảnh đất của cuộc sống, một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của xã hội” (Nguyễn Xuân Nam, Từ điển Văn học, tập 2, NXB KHXH, Hà Nội, 1984, tr.457).

Một thiên truyện ngắn có thể trở thành một “tòa lâu đài” chứa đựng cả tinh thần thời đại nếu như thực sự nằm dưới ngòi bút có tài. Nhà văn chỉ cần “Vẽ một con báo qua mảng lông mà vẫn biết là con báo, qua một con mắt mà truyền được cả tinh thần” (Lỗ Tấn). Trên thế giới, đạt được điều đó, số nhà văn chỉ đếm được trên đầu ngón tay: G.Maupassant, A.Daudet, A.Chekhov, E.Hemingway, J.London, Lỗ Tấn, Nam Cao… Sức mạnh trong sáng tác của các bậc thầy này phần nhiều ở tính chất điển hình và minh xác một hình tượng, trong đó con người và cuộc sống được bọc lộ. Với điển hình đó, người đọc liên tưởng đến một giai đoạn lịch sử, một thời đại dân tộc. Lúc này, truyện ngắn trở thành “tấm bia kỷ niệm vĩ đại”, trở thành “tòa đại lầu chứa đựng cả tinh thần thời đại” như Lỗ Tấn đã nói.

Nếu như kịch “được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội, hoặc những xung đột muôn thuở mang tính toàn nhân loại” (Từ điển Thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi, NXB GD, 1992, tr.114); thơ chủ yếu phản chiếu cuộc sống bằng thế giới cảm xúc, nội tâm, tình cảm của chủ thể nhân vật trữ tình – nhà thơ; tiểu thuyết là loại hình “chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn của nó”; thì truyện ngắn thường “hướng tới việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống con người” (từ điển thuật ngữ văn học, sách đã dẫn), là sự hội tụ đa chiều trong khoảng khắc như “mặt xén ngang của cuộc sống”.

Truyện ngắn thường quan tâm đến một hiệu ứng duy nhất được truyền tải chỉ trong một hoặc một vài tập hoặc cảnh quan trọng. Hình thức khuyến khích nền kinh tế của việc sắp đặt , tường thuật ngắn gọn, và bỏ qua một cốt truyện phức tạp ; nhân vật được bộc lộ trong hành động và cuộc gặp gỡ kịch tính nhưng hiếm khi được phát triển đầy đủ. Tuy nhiên, mặc dù có phạm vi tương đối hạn chế, một truyện ngắn thường được đánh giá bởi khả năng cung cấp cách xử lý “hoàn chỉnh” hoặc thỏa mãn các nhân vật và chủ đề của nó.

Trước thế kỷ 19, truyện ngắn thường không được coi là một hình thức văn học riêng biệt. Nhưng mặc dù theo nghĩa này, nó có vẻ là một thể loại hiện đại duy nhất, nhưng thực tế là tiểu thuyết văn xuôi ngắn gần như lâu đời như chính ngôn ngữ. Trong suốt lịch sử, loài người đã thích thú với nhiều loại truyện kể ngắn gọn khác nhau: truyện ngắn, giai thoại , lạc đề đã học , chuyện tình lãng mạn ngụ ngôn ngắn, truyện cổ tích đạo đức, thần thoại ngắn và truyền thuyết lịch sử viết tắt . Không cái nào trong số này tạo thành truyện ngắn như nó đã được định nghĩa từ thế kỷ 19, nhưng chúng tạo nên một phần lớn môi trường mà từ đó truyện ngắn hiện đại xuất hiện.

Phân tích thể loại

Là một thể loại , truyện ngắn nhận được tương đối ít sự quan tâm của giới phê bình cho đến giữa thế kỷ 20, và những nghiên cứu có giá trị nhất về thể loại này thường bị giới hạn bởi khu vực hoặc thời đại. Trong The Lonely Voice (1963), nhà văn viết truyện ngắn người Ireland Frank O'Connor đã cố gắng giải thích cho thể loại này bằng cách gợi ý rằng các câu chuyện là một phương tiện để "các nhóm dân cư ngập nước" giải quyết một cộng đồng thống trị. Tuy nhiên, hầu hết các cuộc thảo luận lý thuyết khác đều được dự đoán theo cách này hay cách khác dựa trên luận điểm của Edgar Allan Poe rằng các câu chuyện phải có một tác động thống nhất chặt chẽ.

Cho đến nay, phần lớn phê bình về truyện ngắn tập trung vào kỹ thuật viết. Nhiều, và thường là những tác phẩm kỹ thuật hay nhất, khuyên người đọc trẻ tuổi — cảnh báo người đọc về sự đa dạng của các thiết bị và chiến thuật mà người viết có kỹ năng sử dụng. Mặt khác, nhiều tác phẩm trong số này không chỉ là những chuyên luận về “cách viết truyện” cho các nhà văn trẻ chứ không phải là tài liệu phê bình nghiêm túc.

Sự phổ biến trong thế kỷ 19 của hai từ, “phác thảo ”và“ câu chuyện ”, cung cấp một cách nhìn về thể loại này. Chỉ riêng ở Hoa Kỳ đã có gần như hàng trăm cuốn sách tự xưng là tuyển tập các bản phác thảo ( Washington Irving 's Sách phác thảo , Bản phác thảo ngoại ô của William Dean Howells ) hoặc tuyển tập các câu chuyện (Poe's Tales of the Grotesque và Arabesque , Herman Melville 'sTruyện cổ Piazza ). Hai thuật ngữ này thiết lập các đối cực của khuôn khổ mà truyện ngắn hiện đại đã phát triển.

Các câu chuyện cổ hơn nhiều so với bản phác thảo. Về cơ bản, câu chuyện là sự thể hiện mong muốn không ngừng của một nền văn hóa trong việc đặt tên và khái niệm hóa vị trí của nó trong vũ trụ. Nó cung cấp một khung tường thuật của nền văn hóa cho những điều như tầm nhìn của nó về bản thân và quê hương của nó hoặc để thể hiện quan niệm của nó về tổ tiên và các vị thần của nó. Thường chứa đầy các mô-típ, nhân vật khó hiểu được triển khai độc đáo và các biểu tượng , câu chuyện thường chỉ được hiểu đầy đủ bởi các thành viên của nền văn hóa cụ thể mà họ thuộc về. Đơn giản, những câu chuyện mang tính nội văn hóa. Ít khi được tạo ra để đề cập đến một nền văn hóa bên ngoài, một câu chuyện là một phương tiện thông qua đó một nền văn hóa nói với chính mình và do đó duy trì các giá trị của riêng mình và ổn định bản sắc riêng của mình. Người già nói với người trẻ qua những câu chuyện.

Ngược lại, bức phác họa mang tính liên văn hóa, mô tả một số hiện tượng của một nền văn hóa vì lợi ích hoặc niềm vui của nền văn hóa thứ hai. Thực tế và báo chí, về bản chất, bản phác thảo thường mang tính phân tích hoặc mô tả nhiều hơn và ít mang tính tường thuật hoặc kịch tính hơn câu chuyện. Hơn nữa, bản phác thảo mang tính chất gợi mở, không đầy đủ; câu chuyện thường là hypebol , phóng đại.

Điều thiết yếu chế độ của bản phác thảo được viết; đó là câu chuyện,đã nói . Chỉ riêng sự khác biệt này đã giải thích cho các hiệu ứng khác biệt nổi bật của chúng. Người viết ký họa có thể có, hoặc giả vờ có, để mắt đến chủ đề của mình. Câu chuyện, được kể lại tại tòa án hoặc lửa trại — hoặc tại một số nơi tương tự bị xóa khỏi sự kiện — gần như luôn là sự tái hiện quá khứ. Người kể chuyện là tác nhân của thời gian , mang quá khứ và hiện tại của một nền văn hóa lại với nhau. Người viết phác thảo là một tác nhân của không gian , mang một khía cạnh của một nền văn hóa đến sự chú ý trong giây lát.

Chỉ là sự đơn giản hóa một chút khi cho rằng câu chuyện là loại tiểu thuyết ngắn duy nhất cho đến thế kỷ 16, khi tầng lớp trung lưu gia tăng một mặt quan tâm đến chủ nghĩa hiện thực xã hội và mặt khác là ở những vùng đất xa lạ đặt giá cao cho các bản phác thảo của các nền văn hóa phụ. và các khu vực nước ngoài. Vào thế kỷ 19, một số nhà văn - những người có thể gọi là “cha đẻ” của câu chuyện hiện đại: Nikolay Gogol , Hawthorne, ETA Hoffmann , Heinrich von Kleist , Prosper Mérimée , Poe - đã kết hợp các yếu tố của câu chuyện với các yếu tố của bản phác thảo. Mỗi nhà văn làm việc theo cách riêng của mình, nhưng hiệu quả chung là giảm thiểu một số yếu tố giả tưởngvà nâng cao tính quy ước của câu chuyện, đồng thời, để giải phóng bản phác thảo khỏi sự ràng buộc của nó đối với thực tế nghiêm ngặt. Do đó, truyện ngắn hiện đại nằm giữa câu chuyện giàu trí tưởng tượng và bản phác thảo bằng hình ảnh và theo một số cách, dựa trên cả hai.

Những câu chuyện ngắn củaErnest Hemingway , chẳng hạn, thường có thể thu được sức mạnh của họ từ việc khai thác các biểu tượng thần thoại truyền thống (nước, cá, vết thương ở háng), nhưng chúng liên quan chặt chẽ đến bản phác thảo hơn là câu chuyện. Thật vậy, Hemingway đôi khi có thể gửi những câu chuyện có vẻ có thật của mình dưới dạng bản sao trên báo. Ngược lại, những câu chuyện đương đại của Hemingway William Faulkner gần giống với câu chuyện hơn. Faulkner dường như hiếm khi nói quá, và những câu chuyện của anh ấy mang nặng hương vị của quá khứ. Cả ngôn ngữ và chủ đề của ông đều giàu chất liệu truyền thống. Một người miền Nam có thể nghi ngờ rằng chỉ một độc giả có kiến thức sâu rộng về kiến thức truyền thống của miền Nam mới có thể hiểu được đầy đủ về Faulkner. Đôi khi Faulkner có vẻ là một người miền Nam nói chuyện với người miền Nam. Tuy nhiên, nhờ những phẩm chất giàu trí tưởng tượng và biểu tượng, những câu chuyện kể của Hemingway không chỉ là những bản phác thảo báo chí, do đó, nhờ phẩm chất khám phá và phân tích, những câu chuyện kể của Faulkner còn hơn những câu chuyện miền Nam.

Dù người ta có coi truyện ngắn hiện đại là sự kết hợp giữa ký họa và truyện kể hay không, thì cũng khó có thể phủ nhận rằng ngày nay truyện ngắn là một thể loại riêng biệt và tự chủ , mặc dù vẫn đang phát triển.
 
  • Like
Reactions: Vanhoctre

Địa phương TOP

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.