VĂN HỌC CÁCH MẠNG - KHI VĂN CHƯƠNG TRỞ THÀNH VŨ KHÍ

VĂN HỌC CÁCH MẠNG - KHI VĂN CHƯƠNG TRỞ THÀNH VŨ KHÍ

D
Dieu Hoee
Nghệ thuật là sự vận động tự thân của ý thức xã hội trước đời sống hiện thực. Nó ra đời do nhu cầu phản ánh hiện thực, bày tỏ cảm quan cá nhân của người nghệ sĩ. Bởi vậy, văn chương nghệ thuật cũng phục vụ nhu cầu tinh thần của con người. ra đời vào giai đoạn 45 - 75, văn học cách mạng tồn tại như một thứ vũ khí chống chọi trước những xâm hại của cuộc kháng chiến, vực dậy khao khát chiến đấu của người chiến sĩ. đất nước vén màn hòa bình, sau bấy nhiêu năm, văn học cách mạng vẫn hào hùng như trang sử vàng son của dân tộc.

từ năm 1945 đến năm 1975, nhiều sự kiện lịch sử liên tục diễn ra, làm thay đổi cơ cấu xã hội và đời sống sinh hoạt của con người. 35 gắn liền với cuộc kháng chiến Đánh Pháp đuổi Nhật diệt Mỹ cũng kéo theo 30 năm văn học trở thành vũ khí, chỗ dựa của con người. Văn học giai đoạn này chủ yếu phục vụ kháng chiến, phơi bày bản chất thật của chiến tranh đồng thời kích thích tinh thần chiến đấu. do đó, những khía cạnh riêng tư, những cảm xúc cá nhân ít được thể hiện, thay vào đó tính cộng đồng được đề cao, tôn vinh hình ảnh người chiến sĩ được lý tưởng hóa.

Giai đoạn đầu tiên trong phong trào văn học cách mạng bắt đầu từ năm 1945 đến năm 1954. Sau cách mạng tháng tám chấm dứt hơn 80 năm dưới ách thống trị, Đảng và Nhà nước dân chủ ra đời, đề ra nhiều đường lối chính trị và xã hội. Do đó, nhu cầu khẳng định chủ quyền, đề cao tiếng nói tập thể càng được chú trọng. Hình ảnh đất nước buổi đầu thành hình, người anh hùng, cuộc kháng chiến của những tâm tư của người cầm bút được phản ánh như những đề tài chính. Có lẽ bởi vậy mà đây là thời kỳ hoàng kim của văn học Việt Nam. Đây là giai đoạn thơ ca phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa, đề ca tiếng nói nội tâm cá nhân trên nền xã hội nhân văn nói chung. Một số nhà thơ tiêu biểu trong giai đoạn này phải kể đến là Nguyễn Khoa Điềm, Nguyên Ngọc, Tố Hữu,...

Giai đoạn thứ hai trong văn học cách mạng bắt đầu từ năm 1955 đến năm 1975. Đây là thời điểm đất nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy đau thương và anh dũng. Bối cảnh hiện thực trở thành phông nền và xuất hiện như một đề tài chính trong thơ văn. Văn học nghệ thuật chịu sự lãnh đạo tư tưởng từ Đảng và Nhà nước. Do đó tiếng nói cá nhân hay những xúc cảm riêng tư ủy mị bị đẩy lùi lại phía sau. Những tác phẩm đề cao cảm xúc yêu đương nam nữ hay phản ánh cái chết trở thành tác phẩm mang tư tưởng không hợp thời, bị lãng quên mãi cho đến khi nhân dân thời hậu chiến chứng tỏ được giá trị của nó. Con người trong thơ văn cách mạng là con người được sử thi hóa, thấm đẫm tư tưởng cộng đồng, đôi khi được phóng đại hoặc lý tưởng hóa. Đó là khuynh hướng sử thi tôn cao tầm vóc người chiến sĩ - người anh hùng hi sinh vì chính nghĩa.

Nền văn học Việt Nam sau cách mạng Tháng tám đến năm 1975 mang những dấu ấn của một thời chiến tranh oanh liệt, trang sử rọi dấu vàng son của đất nước Việt Nam. Trong giai đoạn này, mỗi nhà văn đều là một chiến sĩ, mỗi người dân đều có thể là một nhà văn tạo nên một mô hình mang tính xuyên suốt. Có thể thấy rõ đặc trưng này khác biệt hoàn toàn với văn học trung đại, khi tầng lớp tiếp nhận bị bó hẹp trong một trình độ nhất định, chỉ có bậc tao nhân mặc khách mới đủ trí tuệ để tiếp cận nghệ thuật. Khuynh hướng tư tưởng chủ đạo chính là tư tưởng cách mạng, phục vụ cho mục đích kháng chiến. Cảm hứng lãng mạn và tư tưởng sử thi hòa quyện đầy tính nhân văn - người cầm bút vừa có thể là thi sĩ vừa có thể là chiến sĩ. Người anh hùng có thể mang dáng dấp các vị anh hùng nhưng vẫn mang nặng nỗi đời nỗi người. Đối tượng của văn học cách mạng hướng đến là toàn thể đồng bào công chúng. Giai đoạn 45 - 75 là giai đoạn văn học Việt Nam có nhiều bước phát triển vượt bậc, mang đặc trưng và dấu ấn riêng.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều từng kể một câu chuyện về những người lính cắm chốt ở đùi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngay khi ý thức được mình đang chạm tới ranh giới giữa sinh và tử, những người lính không còn khát cầu phương thức tự vệ hay sự hỗ trợ về vật chất mà chỉ dõng dạc trả lời: “Chúng tôi cần thơ Phạm Tiến Duật”. Đời cần Thơ như cần hồn chiến trận. Thơ là cuộc cách mạng lớn mà người cầm bút như một người chiến sĩ, vừa thay đổi thơ vừa thay đổi đời. 30 năm xã hội Việt Nam chứng kiến nhiều chuyển biến mới trong công cuộc dựng nước và giữ nước, kéo theo đó là 35 vàng son của văn học cách mạng Việt Nam.
 
21
0
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.