Văn học đã chiêm ngưỡng và cứu rỗi nỗi đau của con người như thế nào?

Văn học đã chiêm ngưỡng và cứu rỗi nỗi đau của con người như thế nào?

D
Dieu Hoee

Người ta nói nhiều về khả năng cứu rỗi và thay đổi thế giới của văn chương nhưng lại dửng dưng trước những nỗi đau xảy ra ngay trước mắt. Sự thật thì, rất có thể văn chương chỉ là những câu chuyện hư cấu và hoàn toàn không thể chắc chắn rằng chúng ta có thể tìm thấy ở đó bất kì hiện thực nào. Dẫu vậy, tôi vẫn luôn tin rằng văn chương có khả năng phản ánh hiện thực và cứu rỗi nó bằng tất cả những phần cao thượng nhất. Trong một xã hội khi mà lòng người bị bán rẻ và niềm tin đang dần vỡ vụn, văn chương nghệ thuật có thể nói là phương án cuối cùng cho niềm hy vọng được sống “người” của con người.


“Nhà văn không phải loài có cánh, không phải diễn viên trên sàn diễn. Nhà văn phải đứng bằng hai chân giữa thập bại chúng sinh, giữa mặt đất đầy hiểm họa.” (Nguyễn Minh Châu). Người nghệ sĩ là chủ thể chính của quá trình chiêm bái nỗi đau. Họ trước hết là con người của nỗi đau, viết để tìm kiếm chính mình và thoát thai khỏi những bóng ma từ quá khứ. Viết, như là một cách để soi chiếu vào nỗi đau một cách trực diện hơn, để ngỡ ngàng trước những hiện thực xảy ra ngay bên cạnh mình mà bị “lớp màng thực dụng” che khuất. Những nỗi khổ đau muôn hình vạn trạng, nhưng tựu trung đều là sự bất mãn trước thời cuộc, sự thất vọng trước một cộng đồng người đối xử với nhau bằng đồng bạc lạnh. “Chiêm ngưỡng” - điều đó có nghĩa là văn chương nhìn nỗi đau ở khoảng cách gần, để nghi vấn, đặt câu hỏi nhưng bình thản trước mọi sự biến chuyển của cuộc đời.


Tìm đến với văn chương như một cách tìm cho mình sự cứu rỗi, thoát tội. “Cái đẹp cứu rỗi thế giới” (Dotoevsky). Nhưng cái đẹp chỉ là một bình diện trong văn chương. Một bình diện đã đủ sức “cứu rỗi” một thế giới rộng lớn đủ để thấy sức mạnh của văn chương đạt đến cảnh giới nào. Văn học tìm cho con người một con đường để giải cứu chính mình khỏi mặc cảm tội lỗi, hay đúng hơn là tìm một lối thoát khỏi hiện thực bế tắc và tăm tối. Nỗi đau còn ngự trị thì con người càng cần có nhu cầu được cứu chuộc mình, cứu giải thế giới.


Truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” của Nguyễn Ngọc Tư đã chiêm ngưỡng và cứu rỗi nỗi đau con người trên tinh thần cốt lõi nhất của nó. Câu chuyện là những mảnh ghép rất đơn giản từ chính cuộc sống bình thường, từ căn nhà nhỏ của đôi vợ chồng, từ con sông, từ con dốc đầu làng. Nó là tâm sự, là hồi ký của những người vợ phải dang tay níu giữ một tình yêu của chồng mình. Khi ngọn lửa phực lên, tro tàn cuốn lấy những khát khao của họ, cũng là lúc nỗi đau hiện nguyên hình. Trong “Tro tàn rực rỡ”, nỗi đau của người phụ nữ phải cứu vãn cuộc hôn nhân đến mức tuyệt vọng, thậm chí “Nhàn đã không chạy ra khỏi đám lửa như mọi khi, anh à! Không biết chị thấy mệt rồi hay vì nghĩ chỉ ở giữa đám cháy Tam mới nhìn thấy chị”. Chính văn học đã mở ra khả năng cứu rỗi cho nỗi đau ấy: bằng việc phơi bày những bi kịch thầm lặng, trang viết giúp con người được nhìn thấy, được thấu hiểu và được sẻ chia. Góc nhìn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng giống như góc nhìn của vợ chồng Nhàn khi nhìn căn nhà bị Tam thiêu cháy rụi: “thằng chồng say sưa đứng ngó mái lá bị lửa ăn rào rào, và con vợ đắm đuối nhìn chồng”. Đám cháy là hiện thân cho tất cả những gì bất mãn nhất bên trong Tam, khi mà xã hội đương thời đang đè nén lên quyền sống của con người. Đốt nhà, với Tam không phải việc điên rồ, mà là cách anh thể hiện nỗi đau trước thực tại, “đốt nhà vì không thể khóc được”. Khi Nguyễn Ngọc Tư tái hiện hình ảnh người phụ nữ lao vào đám lửa để tìm kiếm tình yêu của chồng, văn học không chỉ ghi lại một bi kịch cá nhân mà còn đặt nó vào không gian rộng lớn của xã hội. Qua đó, nỗi đau không còn cô độc; nó được soi rọi, được gọi tên, và được giải thoát phần nào khỏi bóng tối.


Vũ Trọng Phụng không chỉ phơi bày một xã hội “văn minh rởm” đầy lố bịch mà còn kín đáo gửi gắm sự chiêm ngưỡng và cứu rỗi nỗi đau con người giữa guồng quay giả trá ấy. Nhà văn nhìn thẳng vào bi kịch của những kiếp người bị cuốn vào trào lưu Âu hoá nửa mùa: họ sống trong ảo tưởng về văn minh, chạy theo danh lợi và thời thượng để che lấp sự trống rỗng tinh thần. Sự lố bịch đến “rởm đời” bị họ xem là chuẩn mực văn hóa, chỉ những gì nhố nhăng mới là đẹp và “văn minh”. Nhà văn họ Vũ đã nhìn bi kịch của con người bằng cái cười khẩy đầy đau xót, châm biếm để rồi tự khóc than cho thời cuộc bị tha hóa. Từ đó, tiểu thuyết “Số đỏ” nói riêng cứu rỗi con người thoát khỏi giấc ngủ mê của nhận thức. Đằng sau giọng văn sắc lạnh và tiếng cười trào phúng, Vũ Trọng Phụng vẫn dành cho họ một cái nhìn nhân đạo. Bằng việc phơi bày sự thật đến tận cùng, ông cứu rỗi họ bằng ánh sáng của nhận thức: sự nhận ra bản chất xã hội và bản thân là con đường để con người thoát khỏi u mê. Tiếng cười trong “Số đỏ” vì thế không chỉ để chế giễu mà còn để thanh lọc, giúp người đọc nhận diện những giá trị đích thực giữa hỗn độn. Chính khả năng đánh thức ấy làm nên sức mạnh cứu rỗi của văn học: soi chiếu nỗi đau để con người biết đứng dậy từ chính sự sa ngã của mình.


Văn chương đã chiêm ngưỡng trọn vẹn những rực rỡ và u hoài của đời người, để rồi trao đổi với cuộc đời những nỗi trở trăn của chính nhà văn. Viết về nỗi đau không phải lối tư duy tiêu cực, mà là phương tiện để nhà văn kích cầu tính người trong con người. Văn học nếu ngoảnh mặt với bóng tối sẽ khó có thể chạm tới ánh sáng nhân loại. Giữa thời cuộc điên đảo, rất cần những người kể chuyện can đảm, cất lên tiếng nói cứu mình và xã hội mình.
 
4
0
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.