Văn học – nghệ thuật ngôn từ

Văn học không chỉ là một loại hình ý thức xã hội mà còn là một loại hình nghệ thuật. Mỗi loại hình nghệ thuật có vai trò và vị trí riêng trong đời sống tình cảm của con người. Xét đến cùng đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật đều bắt nguồn từ chất liệu của nó. Ví dụ chất liệu của hội hoạ là màu sắc, đường nét, của vũ đạo là hình thể động tác, của âm nhạc là âm thanh, tiết tấu, v.v... Chất liệu của văn học là ngôn từ. Tìm hiểu văn học như nghệ thuật ngôn từ là tìm hiểu đặc thù riêng của văn học trong mối tương quan với các loại hình nghệ thuật khác.

1 Ngôn từ - chất liệu của văn học
1.1 Từ nghệ thuật nguyên hợp đến nghệ thuật ngôn từ


Văn học dùng ngôn từ làm chất liệu riêng từ khi nào? Từ thời nguyên thuỷ, văn học không tách rời với múa nhảy, âm nhạc, ma thuật. Dần dần xuất hiện văn học dân gian truyền miệng với các thể loại như ca dao, thần thoại, truyện cổ tích. Khi có chữ viết xuất hiện mới bắt đầu có văn học viết. Văn học viết lúc đầu chủ yếu là ghi chép các sự kiện lịch sử, các văn kiện nhà nước như thư từ, văn thư, sau đó dần dần các tác phẩm văn học nghệ thuật thuần túy mới xuất hiện. Trải qua quá trình lịch sử, những sáng tác nghệ thuật dùng ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng tách dần ra trở thành một loại hình độc lập: Văn học.

Khi văn học phát triển đầy đủ, thoát khỏi tình trạng văn, sử, triết bất phân, người ta mới có nhu cầu dùng từ văn học để chỉ riêng loại văn mang tính nghệ thuật. Do văn học là sản phẩm của lịch sử như thế cho nên khi nói tới đặc trưng, bản chất của văn học là ta nói tới trạng thái của văn học trong giai đoạn phát triển hoàn thiện nhất của nó.

1.2 Ngôn từ - chất liệu xây dựng hình tượng văn học
Bất cứ hình tượng nghệ thuật nào cũng gắn liền với một chất liệu cụ thể. Khác với hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc xây dựng hình tượng bằng màu sắc, hình khối, âm thanh..., văn học xây dựng hình tượng bằng chất liệu ngôn từ.

Vậy các khả năng nghệ thuật của ngôn từ như thế nào?

Trước hết cần hiểu khái niệm ngôn từ. Khoa học hiện đại phân biệt ngôn ngữ (tiếng) và lời nói (phát ngôn nói và viết). Nếu ngôn ngữ là tổng thể tất cả các đơn vị, phương tiện, các kết hợp mà lời nói sử dụng (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các phương thức tu từ), thì lời nói là hình thức tồn tại cụ thể, sinh động, đa dạng, muôn màu muôn vẻ của ngôn ngữ. Ngôn từ ở đây được dùng với nghĩa là những lời văn, lời nói mang tính nghệ thuật.

Chất liệu ngôn từ có đặc điểm trước hết là tính hình tượng. Văn học có khả năng gợi lên một thế giới sinh động với mọi sắc màu, hương vị, âm thanh, nhịp điệu và sự vận động của nó. Khi đọc một bài thơ, một thiên truyện, ta bắt gặp những cảm xúc, những con người và cảnh vật hiện lên một cách cụ thể, sinh động. Chẳng hạn, đọc Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, ta bắt gặp những hình ảnh thiên nhiên và con vật như ta đã thường gặp ở ngoài đời, nhưng lại mang đậm những ý vị nhân sinh.

Hơn nữa, bằng ngôn từ, chúng ta tiếp xúc trực tiếp với một thế giới cảm xúc, ấn tượng, tưởng tượng vốn rất khó nắm bắt. Để tả nỗi sầu, có người dùng núi: Nỗi buồn sầu chất như núi, mờ mịt không thể dời đi (Đỗ Thiếu Lăng); có người dùng dòng nước: Hỏi anh có bao nhiêu nỗi buồn, cuồn cuộn như sông xuân chảy về đông (Lí Hậu Chủ); có người dùng biển sâu: Hãy đo lượng nước biển đông, để xem buồn nỗi nông sâu thế nào (Lí Kỳ). Sự sâu sắc và tinh tế của cảm xúc đã được chuyển tải trong những hình ảnh ngôn từ sinh động, mới mẻ.

Tính hình tượng của ngôn từ còn xuất phát từ chỗ lời văn trong tác phẩm là lời của các hình tượng. Đó là người kể chuyện, nhân vật trong tác phẩm tự sự, nhân vật trong tác phẩm trữ tình... Với mỗi một nhân vật như vậy thì lời ăn tiếng nói của họ đã góp phần tái hiện chân dung một con người cụ thể với mọi đặc điểm về giới tính, lứa tuổi, học vấn, cá tính...Đây là khả năng cá thể hóa chủ thể phát ngôn. Ví dụ, đọc các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân ta nhận ra hình tượng người kể chuyện - một nhà văn đa phong cách có ngôn ngữ dồi dào, nhờ đó mà bao giờ cũng mô tả cảnh vật và con người một cách tỉ mỉ, tường tận. Đọc thơ của Xuân Diệu, ta nhận biết hình tượng nhân vật trữ tình với sự đam mê, say đắm, hòa nhập để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống bằng tất cả các giác quan qua những từ ngữ tha thiết, rạo rực. Qua những lời nói của Bá Kiến khi Chí Phèo vừa ở tù về đến ăn vạ ta thấy Bá Kiến quả là một tên địa chủ cáo già biết “mềm nắn, rắn buông”. Mối quan hệ giữa hình tượng và chất liệu ngôn từ không phải là sự kết hợp bề ngoài mà là sự thâm nhập xuyên thấm vào nhau, là phương thức tồn tại của hình tượng.

Tính hình tượng còn thể hiện trực tiếp qua khả năng tạo hình và biểu cảm của ngôn từ miêu tả trực tiếp đời sống như các từ tượng thanh, tượng hình (ào ào, long lanh, chúm chím, vi vu, xào xạc...), các từ diễn tả sự vận động của thế giới (cười tủm tỉm, mắt lóng lánh, gió lướt thướt), các từ miêu tả trực tiếp tâm trạng hoặc gián tiếp qua các biện pháp tu từ.

Ngôn từ nghệ thuật còn được tổ chức một cách đặc biệt để xây dựng một thế giới hình tượng trọn vẹn, hoàn chỉnh, giàu ý nghĩa khái quát. Ta bắt gặp trong tác phẩm rất nhiều các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, lặp lại, đối lập... Ví dụ trong mối tương quan: bền vững - đổi thay, cũ - mới, bến - đò, xưa - nay... mà câu ca dao:

Cây đa bậc cũ lở rồi
Đò đưa bến khác bạn ngồi chờ ai


không chỉ nói chuyện cây đa, chuyện đò, chuyện bến mà còn mang ý nghĩa diễn tả niềm đau đớn, xót xa của con người trước sự bội bạc trong tình yêu.

Như vậy mọi sự mô tả thế giới và biểu đạt tư tưởng tình cảm của con người đều có thể thể hiện qua chất liệu ngôn từ. Với khả năng đó, văn học có khả năng vạn năng trong việc nhận thức và phản ánh thế giới.

2 Những đặc điểm của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ

Dùng chất liệu là ngôn từ, văn học có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy thế mạnh của mình trong việc phản ánh hiện thực và tư tưởng, tình cảm của con người. Việc tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ nhằm phân biệt những ưu thế riêng của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác.

2.1 Tính chất phi vật thể của hình tượng văn học

Nếu đứng trước một phòng tranh, nhìn từng bức tranh, mắt ta thấy mỗi bức tranh ấy vẽ cảnh gì, vẽ ai với những đường nét, màu sắc sinh động. Nếu đứng trước một tượng đài, ta nhìn thấy tượng đài thể hiện vị anh hùng nào, nhân vật lịch sử ở thời đại nào. Những điều ấy tác động trực tiếp và gây ấn tượng xác thực mạnh mẽ với người xem. Được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ, hình tượng văn học là một loại hình tượng gián tiếp chỉ có thể hiện lên qua sự hình dung, tái tạo, qua trí tưởng tượng của người đọc. Hình tượng văn học tác động vào trí tuệ và sự liên tưởng của người đọc. Không ai nhìn thấy hình tượng văn học bằng mắt thường. Nó chỉ bộc lộ qua cái “nhìn” bên trong thầm kín. Đó là tính chất tinh thần hay tính phi vật thể của hình tượng văn học.

Tuy nhiên không nên nghĩ rằng hình tượng văn học thiếu khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ. Chính vì mang tính gián tiếp như vậy nên hình tượng văn học lại mở ra những khả năng mà các loại hình nghệ thuật khác khó diễn tả được.

Vì chất liệu ngôn từ là “kho vô tận về âm thanh, bức tranh, khái niệm” (Biêlinxki), cho nên văn học có khả năng hình dung bất cứ sự vật nào trong thế giới vô hình và hữu hình,
trừu tượng và cụ thể. Hình tượng văn học chẳng những có thể tái hiện những điều mắt thấy và nhận biết bằng cái nhìn thị giác như hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh... mà còn tái hiện cả những điều cảm thấy bằng khứu giác, thính giác, xúc giác. Nếu các nghệ thuật tạo hình khác chỉ biểu hiện những hiện tượng đó một cách gián tiếp, thì văn học lại có thể diễn tả rất cụ thể: Nắng thơm rơm mới đường quê gặt mùa (Tố Hữu), Đã nghe rét mướt luồn trong gió (Xuân Diệu).

Với chất liệu là ngôn từ, hình tượng văn học có thể diễn tả được mọi sắc thái tình cảm vốn trừu tượng, mơ hồ của con người. Chẳng hạn như những câu thơ của Xuân Diệu nói
về niềm khát khao giao cảm với đời - một khát khao vô hình nhưng qua lời thơ người đọc tưởng như nhìn thấy tình cảm ấy một cách cụ thể: Không gian như có dây tơ, Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu hoặc là Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu, Lả lả cành hoang nắng trở chiều... Một nỗi nhớ vô hình được hiện hình rõ nét: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Nguyễn Du).

Ngôn từ có thể đưa con người thâm nhập vào bề sâu của thế giới bằng cách sử dụng những chuyển đổi, tương thông cảm giác. Lí Thương Ẩn viết Tiếng hát như châu ngọc, ý nói âm thanh đẹp đẽ, trong vắt, tròn trịa, sáng láng tạo thành những ấn tượng thính giác kèm thị giác. Thanh Thảo, trong trường ca Những người đi tới biển, đã sử dụng ngôn từ chuyển đổi cảm giác rất nhiều như để diễn tả trạng thái choáng ngợp về những vẻ đẹp phong phú, tinh vi của cuộc đời: Gió chướng xanh đến nỗi mình ngợp thở; Hoa phượng vĩ chói lọi tiếng kèn đồng mùa hạ; Một tiếng chim bên đường trong veo giọt nước. Bằng ngôn từ, cái hư, cái vô hình giúp diễn tả cái thật một cách hữu hiệu.

Hình tượng văn học có khi không hiện lên một cách trực tiếp mà gián tiếp thông qua những liên tưởng, ví von, ẩn dụ, tượng trưng... Trong các kết cấu ẩn dụ: Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời (Nguyễn Du), Thuyền về có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (ca dao), ý nghĩa của hình tượng được tạo nên bởi các quan hệ trong các sự vật được miêu tả. Thậm chí, nhiều khi, chỉ thông qua miêu tả những tác động gián tiếp, điều cần miêu tả cũng hiện lên rõ rệt. Bức chân dung Thúy Kiều, theo nhiều nhận định, đó là một bức chân dung rất đỗi hư ảo, thiếu tính trực tiếp: Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Các đoạn tả phong cảnh, chân dung, sắc đẹp, tiếng hát, tiếng đàn... trong văn học thường được miêu tả theo kiểu đó.

2.2 Thời gian và không gian trong văn học

Không gian và thời gian là phương thức tồn tại của bản thân hình tượng. Đặc thù gián tiếp của hình tượng văn học đã đưa đến chỗ mạnh của việc sử dụng hai phương thức này.
So với các loại hình nghệ thuật khác, văn học thuộc loại hình nghệ thuật thời gian. Trong tác phẩm văn học, hình tượng cứ hiện dần lên theo thời gian. Việt Bắc, quê hương của cách mạng hiện dần lên qua hình ảnh thiên nhiên bốn mùa, con người miền núi, sinh hoạt chiến khu. Bên cạnh đó, cảm xúc của con nguời sắp xa Việt Bắc cũng trải dài với nhiều cung bậc: bâng khuâng, bồn chồn, nhớ nhung, yêu thương, tự hào, tin tưởng, thề thốt, hẹn hò (Việt Bắc - Tố Hữu). Cũng vì thế, văn học có khả năng thể hiện các quá trình đời sống một cách linh hoạt.

Thời gian trong văn học có những nhịp điệu, sắc độ riêng để phản ánh hiện thực. Văn học có thể kéo dài thời gian bằng cách miêu tả rất tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng, mọi diễn biến hành động của nhân vật của các sự kiện. Trong một ngày trên con đường đưa bạn mình về nơi yên nghỉ cuối cùng, nhân vật Eđigây đã nghĩ về cả cuộc đời mình và bạn trong cơn bão táp của lịch sử nước Nga. Cái ngày đó Eđigây cảm thấy dài bằng cả trăm năm (Aimatốp - Và một ngày dài hơn thế kỉ ).

Ngược lại, nhà văn có thể làm cho thời gian trôi nhanh đi bằng cách dồn nén làm cho khoảng một thời gian dài chỉ qua một dòng trần thuật ngắn. Ví dụ trong Truyện Kiều khi tả cảnh mùa hạ đã qua, mùa thu đã tới Nguyễn Du chỉ mô tả bằng câu thơ có sáu chữ: Sen tàn, cúc lại nở hoa. Trong bài thơ Mẹ Tơm, nhà thơ Tố Hữu thể hiện tâm trạng của mình
trước sự thay đổi lớn lao đến ngỡ ngàng sau mười chín năm xa cách quê người mẹ anh hùng bằng những dòng thơ ngắn gọn:

Nhà ai ngói mới tường vôi trắng,
Thơm phức mùi tôm nặng mấy nong,
Ngồn ngộn sân phơi khoai dát nắng,
Giếng vườn ai vậy nước khơi trong.


Thời gian trong văn học có thể trôi nhanh hay chậm, yên ả, đều đều hay thay đổi đột ngột, gấp gáp, đầy biến động, có thể có những liên hệ giữa quá khứ, hiện tại, tương lai.

Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời gian tự nhiên, nhưng cũng có thể đi ngược từ hiện tại trở về quá khứ, như thời gian hồi tưởng trong Đi tìm thời gian đã mất
(M. Proust), Người tình (M. Duras), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). Các lớp thời gian có khi đan bện, xoắn xít với nhau. Cũng có lúc giũa quá khứ và hiện tại, tương lai có mối liên hệ thời gian, cùng đồng hiện trong một thời điểm. Trong đoạn Thúy Kiều trao duyên, giữa thời điểm hiện tại, Thúy Kiều tự nhìn thấy mình trong tương lai, một tương lai không còn là người sống nữa, mà chỉ là hồn ma đang ở chín suối, đang theo gió đi về. Đấy là sự đồng hiện thời gian.

Thời gian vật lí trôi qua tuần tự theo các mùa, thời tiết: Sen tàn cúc lại nở hoa. Thời gian tâm lí lúc nhanh lúc chậm tùy thuộc trạng thái tâm hồn và cuộc sống đặc thù của nhân
vật: Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dồn lại một ngày dài ghê. Điều đó tạo nên sự vận động và tính quá trình đa dạng của hình tượng văn học mà các loại hình nghệ thuật khác khó đạt đến được.

Chính nhờ ngôn từ mà hình tượng văn học có những hình thức thời gian đặc biệt để văn học có thể chiếm lĩnh đời sống trên một tầm sâu rộng mà hội hoạ và điêu khắc khó bề đạt được.

Không gian trong văn học cũng có những nét đặc thù. Không gian chính là môi trường tồn tại của con người: dòng sông, cánh đồng, ngọn núi, đèo xa, biển cả... Với mỗi không gian tồn tại, con người có một phong thái sống riêng biệt. Sự đối lập không gian biển cả và con người đã khẳng định nhận khát vọng chinh phục tự nhiên bền bỉ, mãnh liệt của con người (Ông già và biển cả - Hêmingwê). Bên cạnh đó, không gian còn là nơi xác định chiều kích tâm hồn người. Với những con người có cuộc sống mòn đi, mục ra, gỉ đi không có lối thoát thì không gian sống chỉ là những căn nhà không có cửa sổ (Sống mòn - Nam Cao). Còn đối với con người có một tầm vóc tinh thần lớn lao thì không gian diễn đạt thế giới tinh thần cũng phù hợp. Khi nhà thơ Tố Hữu so sánh Bác Hồ với một loạt các hình ảnh: đỉnh non cao, dòng sông chảy nặng phù sa, trời xanh, biển rộng, ruộng đồng nước non, hồn muôn trượng..., ta có thể thấy chiều cao, chiều rộng của thế giới tinh thần lãnh tụ. Đó chính là những giới hạn khác của không gian, như không gian lịch sử, không gian tâm tưởng, không gian tinh thần...

Trong điêu khắc cũng như hội hoạ, không gian được người nghệ sĩ miêu tả là không gian tĩnh, còn không gian trong văn học là một không gian có sự vận động, biến đổi. Trong bài thơ Mẹ Tơm của Tố Hữu, ta được chứng kiến một không gian sống động:

Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa,
Một buổi trưa nắng dài bãi cát,
Gió lộng xôn xao sóng biển đu đưa,
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát.


Hoặc con mắt của nhà văn có thể dễ dàng đưa người đọc di chuyển từ không gian này sang không gian khác. Đọc câu thơ: Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường trong Truyện Kiều - tác giả đã cho ta thấy hai đoạn đời khác biệt dữ dội của Thúy Kiều. Trong Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, không gian di chuyển của Dế mèn thật linh hoạt. Không gian trong văn học không hề bị một giới hạn nào. Trong loại văn học kì ảo, con người có thể đi từ thế giới này sang thế giới khác một cách dễ dàng.

Đặc sắc này làm cho văn học phản ánh đời sống trong sự toàn vẹn, đầy đặn của nó.

Một đặc điểm nổi bật của thời gian và không gian văn học là tính quan niệm của chúng. Bởi lẽ, không gian, thời gian không chỉ là môi trường, là quá trình tồn tại của nhân vật mà còn là sự cảm nhận của chính chủ thể hoạt động ấy về thế giới. Thời gian trong truyện cổ tích luôn mang tính khép kín: tính cách con người là bất biến, người ta có thể trẻ mãi không già, thời gian không làm ảnh hưởng tới hạnh phúc mà con người đạt được. Với thơ cổ điển, thời gian mang tính tuần hoàn, vĩnh viễn. Trong Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả cuộc sống của Mị từ khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra là cuộc sống của một kẻ nô lệ. Cuộc sống ấy gắn liền với căn buồng tối tăm, chật hẹp, tù túng. Còn để diễn tả cảnh mùa thu mới - mùa thu đất nước đã dành được độc lập, dân tộc ta đã được sống cuộc sống tự do, nhà thơ Nguyễn Đình Thi dựng lên một không gian rộng lớn, khoáng đạt, đa chiều:

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Mùa thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ rực phù sa...


Tóm lại, không gian và thời gian trong văn học rất tiêu biểu cho khả năng chiếm lĩnh đời sống vừa rộng, vừa sâu về nhiều mặt của nghệ thuật ngôn từ.

2.3 Khả năng phản ánh ngôn ngữ và tư tưởng của hình tượng văn học

Điểm độc đáo nhất của văn học, khác hẳn các ngành nghệ thuật khác, là ở chỗ nó phản ánh được mọi hoạt động ngôn từ của con người. Con người trong văn học là người biết nói năng, suy nghĩ bằng ngôn từ. Người ta cho rằng: ngôn từ chẳng những là phương tiện miêu tả, mà còn là đối tượng miêu tả của văn học. Hoạt động lời nói, suy nghĩ là một mặt cơ bản của đời sống xã hội của con người. Qua văn học ta có thể nghe thấy tiếng nói của mọi tầng lớp người ở các thời đại khác nhau.

Văn bản trong tác phẩm văn học gồm nhiều lời nói: ngôn từ trần thuật, người kể chuyện, nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình. Mỗi lời nói đều mang dấu ấn của một con người với những tính cách riêng. Đọc Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp lời của Huấn Cao nói với viên quản ngục khi ông ta đến thăm mình: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Lời nói của nhân vật Huấn Cao đã góp phần thể hiện tính cách của một con người hiên ngang, bất khuất. Trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, khi nhân vật cố Hồng mở miệng ra là Khổ lắm, biết rồi, nói mãi! người đọc hiểu được nét độc đáo trong tính cách của ông ta. Khi văn học bắt đầu phân biệt ngôn từ của người kể chuyện và nhân vật, đó là dấu hiệu của sự phát triển về tư duy nghệ thuật.

Gắn liền với hoạt động lời nói là hoạt động tư duy. Tư duy là một gương mặt đích thực của con người. Các nghệ thuật không sử dụng ngôn từ, có thể tư duy về con người, nhưng không thể dựng lại con người đang tư duy. Ví dụ khi Sở Khanh nói với Thúy Kiều: Nàng đà biết đến ta chăng, Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi! chính là lúc hắn khoác lác, lừa gạt sự nhẹ dạ của Thúy Kiều. Dĩ nhiên văn học xưa nay không chỉ tập trung miêu tả tư duy, nhưng phương diện này lại là một thế mạnh hiển nhiên của văn học. Chỉ một bài Tùng cũng cho ta biết bao điều thầm kín mà Nguyễn Trãi gửi gắm vào cây tùng. Trong bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du, khi đánh giá số phận của Thúy Kiều và cũng là cuộc đời của Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu bày tỏ sự suy ngẫm của mình qua những lời thơ:

Hỡi lòng tê tái thương yêu,
Giữa dòng trong đục cánh bèo lênh đênh,
Ngổn ngang bên nghĩa, bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao?
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào,
Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường.


Như vậy bằng hình tượng ngôn từ, các tác giả có thể khắc hoạ chân dung tư tưởng của mỗi con người.

Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học có khả năng miêu tả tư tưởng và các xung đột tư tưởng, nên tính tư tưởng của tác phẩm văn học sắc bén hơn. Không những văn học mang tính khuynh hướng tư tưởng rõ rệt mà còn có khả năng thâm nhập sâu xa vào dòng ý thức, dòng tình cảm của con người. Nghệ thuật miêu tả tâm lí của Tônxtôi đạt đến trình độ phép biện chứng tâm hồn chính vì đã miêu tả được sự vận động tất yếu của dòng cảm xúc và ý nghĩ của nhân vật.

***

Nói về khả năng của văn học trong việc phản ánh một cuộc sống, Hêghen cho rằng vănhọc là: Nghệ thuật có khả năng diễn đạt và phát biểu bất cứ nội dung nào dưới bất cứ hình thức nào. Điểm mạnh của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác là ở chỗ, văn học có thể phản ánh được mọi phương diện của đời sống, vừa quy mô, rộng lớn, vừa cụ thể, cá biệt. Chính vì vậy, Gôgôn đã từng nói: Dân ca Nga - đó là lịch sử tâm hồn Nga. Còn theo Biêlinxki, Épghênhi Ônêghin (Puskin) là bộ Bách khoa toàn thư của cuộc sống Nga. Như vậy có thể khẳng định rằng, văn học là loại hình nghệ thuật hữu hiệu và mang tính vạn năng nhất trong việc thể hiện đời sống

Xem thêm: Đối tượng và nội dung của văn học
 
Từ khóa Từ khóa
chất liệu ngôn từ hình tượng văn học không gian thời gian nghệ thuật ngôn từ tính phi vật thể của hình tượng đặc điểm của văn học
6K
3
2
Trả lời

Văn học là nghệ thuật ngôn từ​


Ralph Waldo Emerson từng nhận định rằng: “Yêu cái đẹp là thưởng thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật.” Đúng thế cái đẹp là thứ mà con người muốn thưởng thức và chiếm hữu, còn lại việc tạo ra cái đẹp đó lại là thuộc về khung trời nghệ thuật. Nhà họa sĩ, người nghệ sĩ, nhà văn,…họ là những con người tạo nên nghệ thuật. Nếu một nhà họa sĩ đối với họ bức tranh họ vẽ là nghệ thuật, đối với người nhạc sĩ, âm nhạc là nghệ thuật thì đối với một nhà văn thì văn chương là nghệ thuật, là lẽ sống đời họ. Tố Hữu từng nói “Cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là nơi đi tới của văn học”. Chính là vậy, văn học là bộ môn nghệ thuật, nội dung luôn là những thứ trong cuộc sống xã hội qua mọi thời đại. Nó nhằm phản ánh nhận thức, khám phá hiện thực đời sống xã hội và con người nhằm thỏa mãn cho con người những tình cảm thẩm mỹ vô cùng phong phú đa dạng đồng thời hướng con người đến với giá trị Chân-Thiện-Mỹ. Điều; làm nên một tác phẩm, nghệ thuật là chất liệu. Đối với văn học thì chất liệu làm nên một tác phẩm chính là ngôn từ. Thế nên “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ”.

Đối với việc xã hội ngày càng không ngừng phát triển thì phạm vi của nghệ thuật ngôn từ ngày càng rộng thêm và lại còn đổi khác đi. Do vậy khi nói văn học là nghệ thuật ngôn từ”, ta chỉ nói đến một loại hình nghệ thuật đó tức là loại hình sử dụng ngôn từ để sáng tạo ra thế giới nghệ thuật, vì mục đích nghệ thuật. Từ đó ta thấy rằng ngôn từ trong văn học và ngôn từ sinh hoạt để giao tiếp nó có mặt trái với nhau. Đơn giản là vì khi giao tiếp là loại hình nghệ thuật đa dạng, để truyền tải thông tin lời nói, có thể dung ký hiệu, cách thức giao tiếp phi nghệ thuật,… Mục đích của ngôn từ trong đời sống hằng ngày chính là truyền đạt cho người khác, cốt cho làm sao cho đối phương hiểu rõ ý của mình truyền tải bằng mọi cách, kể cả dùng phi ngôn từ như: biểu hiện nét mặt, giọng điệu hay chỉ là cái vẫy tay hoặc một cái gật đầu… Còn đối với ngôn từ văn học là ngôn từ được lựa chọn, tổ chức thành văn bản cố định không thể thay đổi, sao cho một lần mà có thể giao tiếp với cái mốc thời gian là hai chữ mãi mãi.

Đối với ngôn từ sinh hoạt các đặc trưng có thể có hoặc không cũng không quan trọng. Nhưng đối với ngôn từ văn học lại có những cái đặc trưng để cho nó mãi tồn tại với thời gian.

Thứ nhất là tính hình tượng. Là những từ ngữ mang tính tượng hình. Tính tượng hình biểu hiện qua việc làm sống dậy những hiện thực trong tâm trí độc giả, tái hiện được các trạng thái, truyền được động tác hoặc cái sự vận động của con người, cảnh vật và toàn bộ thế giới rộng lớn mà tác phẩm nói đến. Một nhà văn viết ra từng câu chữ sâu sắc ấy không chỉ đẻ giải tỏa tâm sự, nổi niềm mà còn để thể hiện tư tưởng, tình cảm của giai cấp, tầng lớp của mình. Những con người đặt bút viết nên từng tác phẩm văn chương, thơ ca, ca dao ấy là những người đại diện cho giai cấp, thế hệ mình đang sống. Ví dụ như một bài ca dao về hoa sen:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”


Nội dung tư tưởng, tình cảm, cảm xúc về cái đẹp không phải được biểu hiện trực tiếp qua từ ngữ và câu văn thông thường mà qua các hình tượng cụ thể: “lá xanh”, “bông trắng”, “nhị vàng” dùng để gợi tả. Hơn nữa bao trùm lên tất cả là hình tượng sen nhu là một tín hiệu thẩm mỹ về một phẩm chất thanh cao, đẹp đẽ trong tự nhiên và cả trong xã hội loài người. Ngoài ra để tạo ra hình tượng ngôn ngữ, người cầm bút thường sử dụng rất nhiều phép tu từ để nâng tầm nghệ thuật như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, nói quá,… Cụ thể là trong bài thơ “Viếng Lăng Bác” của tác giả Viễn Phương có các câu thơ như

“Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Sử dụng biện pháp ẩn dụ để cho thấy sự vĩ đại của Bác qua hình ảnh “mặt trời”. Bởi vì mặt trời dùng ánh sáng để ban sự sống cho muôn loài, còn Bác là ánh sáng chân lý để tâm hồn con người nở hoa, cho đồng bào thêm một sự hồi sinh về một tương lai tốt đẹp. Hoặc còn có câu:

“Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Dùng biện pháp hoán dụ ở cụm “bảy mươi chin mùa xuân” thay vì Bác đã bảy mươi chín tuổi. Tạo ra cảm giác tránh đi sự mất mát đau thương phần nào đó và đó cũng chính là một sự tinh tế của tác giả Viễn Phương. Biện pháp hoán dụ ấy chỉ rằng cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân.

Trong văn học, sức mạnh của lời nói nằm ở tầm khái quát của chủ thể hình tượng, ở khả năng đại diện cho tư tưởng, tình cảm lương tâm của thời đại chứ không phải phụ thuộc vào địa vị xã hội của người chấp bút. Từ phương trời của một người mà thành phương trời của nhiều người, tác phẩm từ đó trường tồn mãi với thời gian.

Thứ hai là tính tổ chức. Ngôn từ văn học đều mang tính tổ chức cao nhằm tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Đây là điều làm cho ngôn từ văn học khác với các ngôn từ với mục đích khác nhau. Đặc trưng này chính là để tạo nên thứ tự, trình tự của ngôn từ văn học. Ngôn từ văn học từ khi xuất hiện bao giờ cũng có đầu đuôi rõ ràng, được sắp xếp theo trình tự lớp lang. Nếu trật tự bị thay đổi thì nội dung sẽ bị thay đổi hoàn toàn theo. Trong tính tổ chức này ngôn từ văn học trước hết buộc phải mang sự trong sáng và chính xác. Từ ngữ phải mang sự trong sáng vì ngôn từ văn học phải phù hợp với chuẩn mực của ngôn từ toàn dân, được đông đảo nhân dân hiểu và chấp nhận. Aristote có nhận định rằng: “Đức tính thứ nhất của lối hành văn là sự trong sáng”. Là thế đấy, sự trong sáng là điều bắt buộc trong văn học và đương nhiên chuyện xen kẻ ngôn ngữ nước ngoài một cách không hợp lý trong một tác phẩm là một điều sẽ phải hạn chế xảy ra. Nó làm mất hoàn toàn sự trong sáng của cả một tác phẩm và cái ngôn từ ấy không được chấp nhận. Về sự chính xác, ngôn từ văn học thể hiện ở dựng lên đúng cảnh, đúng người, đúng tình, đúng ý làm độc giả có thể cảm nhận hết những ý nghĩa sâu xa mà người viết muốn truyền tải đôi khi rất tinh tế và mong manh. Suy trong cùng ngôn từ văn học phải có tính hàm súc, cô đọng, nói được nhiều điều với số lượng ngôn từ ít nhất. “Ý tại ngôn ngoại” chính là ý nằm ngoài câu chữ, lời chất chứa ý rộng, giàu sức gợi hình, gợi cảm là đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ. Nét sâu sắc trong bài thơ Xúc cảnh của Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện bi kịch nội tâm của một nhà Nho vốn dĩ tôn thờ vua, thế mà câu thơ: “Chúa xuân đâu hỡi có hay không”. Có hay không có là câu hỏi sâu xoáy lòng người.

Thứ ba là tính truyền cảm. Ngôn từ văn học mang yếu tố truyền cảm để gây cảm xúc ấn tượng mạnh cho người đọc có thể cảm nhận chung một nhịp đập cảm xúc với người viết. Hồ Xuân Hương bà đã chấp bút bài thơ “Bánh Trôi Nước”:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẵn giữ tấm lòng son”

Sử dụng hình ảnh bánh trôi để miêu tả vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ xưa. Dù có xinh đẹp tài hoa đi chăng nữa số phận trôi nổi không thể thay đổi được. Cụm từ “Thân em” khơi gợi một thoáng ngậm ngùi về thân phận người phụ nữ (Thân em như hạt mưa sa, thân em như dải lụa đào…). Xã hội phong kiến với quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con” ngồi đó và “Chế độ đa thê” người phụ nữ không hề có sự chọn lựa (Chém cha cái kiếp lấy chồng chung – Hồ Xuân Hương), phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và dù chồng có năm thê bảy thiếp mà người phụ nữ có tổn thương đau khổ đi nữa cũng không có quyền bỏ chồng để tìm một hạnh phúc khác cho mình mà phải chịu kiếp chồng chung. Cuối cùng thì ngôn từ nói bằng thứ tiếng duy nhất: thứ tiếng của cảm xúc. Ngôn từ văn học mang tính biểu cảm ở nhiều cách khác nhau mà bày tỏ: gián tiếp, trực tiếp và chính là cảm xúc tiếng nói của nội tâm. Huy Cận trước trời chiều đã thốt lên:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

(Tràng giang)

Đó là nỗi đau thân phận con người bé nhỏ lạc loài giữa mênh mông đất trời, là cảm xúc chơi vơi, chấp chới.

Đến cuối nó chính là tính “phi vật thể” của hình tượng văn học. Hình tượng văn học cũng chính là hình tượng văn học của ngôn từ. Chất liệu của các ngành nghệ thuật khác thì: âm nhạc, màu sắc, tiết tấu, diễn xuất thuộc dạng vật chất vì tai có thể nghe và mắt có thể thấy, đều có thể thưởng thức bằng cơ thể người. Nhưng đối với văn học nó lại khác vì dù có thể nghe hay nhìn vào trang sách nhưng một điều rằng đó không thể là nghe nhìn trực tiếp. Không một hình ảnh, âm thanh nào hiện lên một cách trực quan mà thay vào đó là ký hiệu con chữ rồi dùng sự tưởng tượng của mình để khắc họa hình ảnh, âm thanh hình thành trong đầu. Từ đó ta hiểu rằng sự tồn tại của văn học không phải chỉ dưới dạng vật thể tồn tại trực tiếp trong không gian và thời gian mà nó thuộc về logic tìm ẩn trong trí nhớ, sự tưởng tượng và tình cảm của người cảm thụ, khiến họ nhận biết về sự tồn tại của nó, ví dụ:

“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.”


(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

“Đùng đùng gió dục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay.”


(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Hai câu thơ trên đều thuộc “Truyện Kiều” của tác giả Nguyễn Du nhưng ở đây cần dùng thị giác để tiếp nhận màu sắc hình khối của hiện thực và thính giác để tiếp nhận âm thanh cuộc sống.

Cuối cùng rằng văn học là nhân sinh quan, nó là quan niệm sống, là cách nhìn về cuộc đời cũng chính là nghệ thuật của ngôn từ. Mực đi đôi với giấy trắng thì văn học và ngôn từ sẽ sánh đôi với cuộc đời. Những ngôn từ tồn tại trong hiện thực đời sống được chắt lọc, gọt dũa để trở thành hình tượng nghệ thuật.


Nguyễn Thị Thùy Trinh
 
Đây quả là một bài luận xuất sắc. Với tư duy có chiều sâu, bố cục chặt chẽ, luận điểm được phân tích rất rõ ràng, văn phong đậm nét nghị luận... thì có thể coi là điển hình cho một bài nghị luận xã hội.
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.