Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Để viết một mở bài hay các bạn không thể thiếu những nhận định về các tác phẩm. Dưới đây là một số nhận định hay về tác phẩm "Vợ nhặt", mời các bạn cùng tham khảo nhé!

nhận định hay về tác phẩm vợ nhặt.png

Top 10 nhận định hay về tác phẩm "Vợ nhặt"
1. Ở truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân chú tâm miêu tả kĩ lưỡng hiện thực tàn khốc trong nạn đói thê thảm mùa xuân 1945.

2. Nhà văn dùng "Vợ nhặt" để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện "Vợ nhặt" đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng.

3. Ở truyện ngắn "Vợ nhặt" nhà văn chủ yếu hướng vào thể hiện vẻ đẹp tiềm ẩn của những người dân nghèo sau cái bề ngoài đói khát, xác xơ của họ.

4. Chỉ với ba truyện "Vợ Nhặt", "Làng", "Con chó xấu xí"… Kim Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn Việt Nam.

5. Kim Lân chọn bối cảnh nạn đói năm 1945 cho truyện "Vợ nhặt" không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong văn chương từ đó tới nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết của Kim Lân khiến ta khiếp sợ, rụng rời.

6. Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn.

7. Bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau. Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện "Vợ nhặt" khai thác những khía cạnh sau cùng của ki kịch ấy.

8. Kim Lân là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ.

9. "Vợ nhặt" dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước cách mạng tháng Tám 1945.

10. Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn "Vợ nhặt" với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.

Trên đây là một số nhận định về tác phẩm "Vợ nhặt". Hi vọng với nhận định này sẽ giúp các bạn có những bài văn hoàn hảo nhất.
Thêm
Top 10 nhận định hay về tác phẩm "Vợ nhặt"
3K
0
2

Triều Anh

Người yêu của văn chương ❤️
Thành viên BQT
3/12/22
606
440
63,000
Sóc Trăng
Xu
6,078,826
Các nhận được được chọn lọc kĩ, có thể dùng đưa vào bài làm văn giúp bài viết sinh động và thuyết phục hơn.
 
Thông qua "Vợ nhặt", nhà văn Kim Lân đã lên án, tố cáo tội ác phát xít Nhật, xã hội Việt Nam trước 1945 đã đẩy con người vào hoàn cảnh khốn cùng. Hãy cùng tìm hiểu về giá trị hiện thực trong tác phẩm bạn nhé.

1. Phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam những ngày trước Cách mạng tháng Tám năm 1945:
- Đó là nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu. Mở đầu tác phẩm “Vợ nhặt” là bức tranh ngày đói. Chỉ vài nét phác thảo, nhà văn đã vẽ nên bức tranh ngày đói thật hãi hùng. Xóm ngụ cư chìm trong bóng đêm chết chóc, tăm tối, ảm đạm. Ở đây thiếu vắng sự sống hoặc sự sống le lói như ngọn đèn trước gió.
- Hai lần nhà văn so sánh người với ma. Người sống thì “lũ lượt dắt díu, bồng bế nhau lên xanh xám như những bóng ma” hoặc “ dưới những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ lặng lẽ như những bóng ma”. Người chết thì “như ngả rạ, không một sáng nào đi làm đồng hoặc đi chợ người ta lại không thấy ba bốn cái thấy người nằm còng queo ở bên vệ đường”. Mùi tử khí nồng nặc.
-Tác giả còn tô đậm bức tranh hơn nữa bởi âm thanh tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết”. Cõi âm và cõi dương nhạt nhòa. Tất cả đang đứng bên bờ vực của cái chết.

Thị cùng Tràng về.jpg

Giá trị hiện thực trong truyện ngắn "Vợ nhặt". Ảnh mạng.

2. giá trị con người thật rẻ rúng:
- Người đàn bà “vợ nhặt” của Tràng rách rưới thảm hại: ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách như tổ địa. Thị sắp chết đói. Thị bất chấp tất cả ngồi sà xuống ăn một chập hết bốn bát bánh đúc rồi theo về làm vợ một người đàn ông xa lạ chỉ mong qua được cái đói trước.

3. Chi tiết bữa cơm ngày đói:
- Bữa cơm đầu đón nàng dâu và cuộc chuyện trò giữa ba mẹ con trong bữa ăn đầu đón nàng dâu: “Bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với chảo". Bữa cháo lõng bõng, chủ đủ lưng hai bát cho mỗi người. Cuối cùng phải ăn cháo cám để cầm hơi. Bức tranh nông thôn miền Bắc ngày đói được mở dần ra qua lời bà cụ Tứ “đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế, giời đất này không chắc đã sống qua nổi đâu các con ạ”.
Thêm
Giá trị hiện thực trong "Vợ nhặt"
638
0
0
"Vợ nhặt" là một trong những tác phẩm trọng tâm của chương trình văn 12. Hãy cùng điểm sơ qua các kiến thức căn bản của tác phẩm để hiểu rõ hơn về văn bản bạn nhé!

1. Tác giả:
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê – những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sáng tác của ông phản ánh một cách chân thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa; dù rơi vào hoàn cảnh nào vẫn luôn lạc quan, yêu đời và hướng tới tương lai hi vọng trông chờ.

2. Tác phẩm:
- Tác phẩm “Vợ nhặt” tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Do thất lạc bản thảo nên khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Kim Lân đã dựa trên một phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện ngắn “Vợ nhặt”. Truyện ngắn này sau đó được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).

Vợ nhặt.png

"Vợ nhặt" - Kim Lân. Ảnh mạng.

3. Nội dung:
- Truyện tái hiện tình cảnh thê thảm của nhân dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. Qua đó, thể hiện niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt vào cuộc sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những con người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực của cái chết.

4. Tình huống truyện độc đáo:
Tràng nghèo, xấu xí, lại là dân ngụ cư, giữa lúc đói khát nhất, khi cái chết đang cận kể lại “nhặt” được vợ, có vợ theo. Tình huống éo le này là bước ngoặt cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện.

5. Nghệ thuật:
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo. Xây dựng nhân vật đặc sắc, đối thoại sinh động hấp dẫn; ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chất lọc kỹ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. sắc sao...
Thêm
Kiến thức căn bản trong tác phẩm "Vợ nhặt"
  • Like
Reactions: Haneul
645
1
2

Jenny Lục Ngạn

Học tốt văn ^^
2/10/23
32
17
8,000
Bắc Giang
forum.lucngan.net
Xu
376,866
Những nhận định về nhà văn Kim Lân
---
Trong năm học này, cả lớp 11 và 12 đều được học tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân, các bạn lớp 9 cũng sắp tìm hiểu tác phẩm "Làng" nữa, page chia sẻ những nhận...
 
  • Like
Reactions: Haneul

Haneul

Thành Viên
30/10/22
15
8
3,000
Xu
76,207
Những nhận định về nhà văn Kim Lân
---
Trong năm học này, cả lớp 11 và 12 đều được học tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân, các bạn lớp 9 cũng sắp tìm hiểu tác phẩm "Làng" nữa, page chia sẻ những nhận định về nhà văn Kim Lân để các bạn học nha!
---
“Lắm lúc tôi thấy văn chương là một thứ đạo, đạo làm người, như một thứ tôn giáo. Mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi sự thương yêu giữa con người với con người, đòi con người có quyền làm người, bình đẳng, tự do, bác ái. Mỗi người truyền một cách, nhưng cuối cùng con người vẫn thương yêu nhau và làm cho con người có tư cách, có nhân phẩm, tài năng để đánh giá đúng và chống lại bạo ngược, cường quyền, áp bức”.
(Nhà văn Kim Lân)

“Dùng lý lẽ để thuyết phục trong văn chương cũng là một thứ cưỡng chế. Những lý lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó làm cho người ta không giữ được chính mình. Nói một cách khác hết sức mềm mại thì người cầm bút phải viết như chơi, viết thoải mái bằng tấm lòng của mình, hướng vào cái thật, cái đẹp, giúp cho con người sống thật, sống đẹp với nhau. Và khi nhà văn gặp cái gì trái với cái thật, cái đẹp thì phải biết bất bình, phải dám lên tiếng nữa”.
(Nhà văn Kim Lân)

“Tất cả những truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu xí đều dựa trên cái nền là sự thật”.
(Nhà văn Kim Lân)

“Nhà văn dùng Vợ Nhặt là cái đòn bẩy để nâng con người lên tình nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã loé lên những tia sáng ấm lòng”.
(Trần Đồng Minh)

“Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945”.
(Vũ Dương Quỹ)

“Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”.
(Trích “Nhà văn nói về tác phẩm”, Hà Minh Đức)

“Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời... Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy không một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn”.
(Trần Ninh Hồ)

“Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”.
(Nguyễn Khải)

" Chỉ với ba truyện ngắn Làng, Vợ Nhặt , Con chó xấu xí nhà văn Kim Lân đã đường hoàng ngồi chiếu trên trong làng văn Việt Nam"( Nguyễn Khải )
---
Tài liệu sưu tầm
Jenny Lục NgạnNhững nhận định này rất hay nhưng khó nhớ khi làm bài thi trực tiếp.
 
Nhu cầu bám lấy sự sống đã thôi thúc thị theo Tràng về làm vợ. Đằng sau hành động tưởng chừng nông nổi ấy lại là biết bao nỗi lòng của một người con gái ý tứ, biết điều nhưng bất lực trước nạn đói.

Thị cùng Tràng về.jpg

Thị cùng Tràng về nhà. Ảnh minh họa.
c. Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều:
- Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin "chân họ bước díu cả vào chân kia... cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt".

- Về đến nhà chồng, nhìn thấy "ngôi nhà vắng teo đứng rúm rõ trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ dại”, thị “nên một tiếng thở dài". Đây là sự nén lại tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.

- Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm" vào mép giường ("Ngồi mớm" thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tử). Thị ý tử, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vẫn về tà áo đã rách bọt".

d. Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan:
- Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra; nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lọn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: "Tràng nom thì hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chóng lớn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh". Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực và sự nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.

+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu chảo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn", lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thậm chí lúc cầm bát cháo cám mẹ đưa cho, “mắt thị tối sầm lại" nhưng sau đó thị “điềm nhiên và vào miệng”. Sự tương phản rõ nét ở hành động cho thấy được sự cam chịu, chấp nhận ở thị và tấm lòng trân trọng trước tình tình cảm của mẹ chồng. Thị thật đáng quý biết bao.

+Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phả cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách mạng.


Thông qua nhân vật thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng ngợi ca vẻ đẹp con người kể cả trong hoàn cảnh khốn cùng và đồng thời gián tiếp lên án nạn đói tàn ác đã đẩy dân ta vào cảnh lầm than.
Thêm
Phân tích nhân vật Thị (p.2)
757
0
4

Vanhoctre

Văn Học Trẻ
Thành viên BQT
19/8/19
804
680
362,999
Việt Nam
vanhoctre.com
Xu
1,338,895
Một bài viết không quá dài mà phải tách ra làm 2. Và cũng không link đến nhau.

Là người viết bài chuyên nghiệp họ sẽ ko làm vậy.
 

Vanhoctre

Văn Học Trẻ
Thành viên BQT
19/8/19
804
680
362,999
Việt Nam
vanhoctre.com
Xu
1,338,895
Em muốn tách ngắn để mn dễ đọc hơn và không bị nản bởi nhìn chung nội dung khá nhiều. Phần 1 là về Thị trước khi về nhà, và phần 2 là sự thay đổi của Thị trên đường về nhà chồng. Nó cho thấy cái đói đã tác động mạnh đến cách hành xử của con người và bản chất thật của họ.
Xuân VũAdmin nghĩ đó không phải vấn đề. Vì tối ưu trải nghiệm đọc người ta sẽ tách thành nhiều bài trong chủ đề.
 
  • Like
Reactions: Xuân Vũ
Thị - một nhân vật không tên, không tuổi, chẳng có gì ngoài con số 0 tròn trĩnh lại là một trong những nhân vật trung tâm của tác phẩm, đại diện cho một bộ phận những người cùng khổ những năm nạn đói hoành hành. Bên trong con người ấy lại ẩn chứa biết bao vẻ đẹp tiềm tàng. Hãy cùng phân tích hình tượng nhân vật Thị để hiểu rõ hơn.

a. Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh:
-Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh - biểu tượng cho một bộ phận người. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị” “người bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

- Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:

+ Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng... cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

+Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, "áo quần tả tơi như tổ đỉa", "khuôn mặt lưỡi cày xám xịt" nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy". Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa.

+Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chóng lớn”, “chua ngoa, đanh đá". Thị “cong cớn”, “sưng sỉa" khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.

Vợ nhặt.png

Thị theo Tràng về nhà. Ảnh mạng.
b. Nhưng phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt" lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ:

-Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về…. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Trắng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì ăn? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng - đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm cảnh để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
Thêm
Phân tích nhân vật Thị (P.1)
603
0
0
"Vợ nhặt" là một trong những tác phẩm xuất sắc làm nên tên tuổi của Kim Lân. Trong những trang viết ấn tượng ấy, không thể không kể đến đoạn trích sau với ý nghĩa kết thúc truyện nhưng mở đầu cho cuộc đời của anh Tràng và những con người cùng khổ trước CMT8.

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
-Trống gì đấy, u nhỉ?
-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thị lại tiếp:
-Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
-Việt Minh phải không?
-Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...


1. Mở đầu đoạn trích là bức tranh hiện thực đầy u ám, tăm tối của nạn đói khủng khiếp năm 1945 và sự hoang mang của con người trước hiện thực đen tối ấy. Kim Lân miêu tả:
“Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.”

- Đoạn trích mở ra là âm thanh. Ngoài định bóng đôi lên một hỏi trong nhân dân, Hội sử. Từ "bỗng" gợi ra sự hốt hoảng, ám ảnh. Âm thanh tiếng trống được miêu tả “dồn dập, vội vã", âm thanh ấy phá tan cả bình yên buổi sáng vàkhông khí đầm ấm đoàn viên của gia đình Tràng.

- Hình ảnh đàn quạ trong cách so sánh “lượn thành từng đám bay vẩn lên nền trời như những đám mây đen” gợi ra cảnh tượng chết chóc, đen tối, một không gian u ám, ảm đạm. Dân ta “chết như ngả rạ”, người sống “như những bóng ma", cuộc sống đang chết dần, chết mòn nhưng các thế lực thống trị vẫn không buông tha cho nhân dân.

- Tiếng trống thúc thuế cùng với lời giãi bày và sự lo lắng của bà cụ Tử càng làm cho thực tại trở nên bi thảm. Phép điệp cấu trúc: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế” làm cho hai nỗi khổ trùng điệp hiện lên

-Câu nói như một tiếng kêu than đầy bất lực của người mẹ: “Giới đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Bà cụ Tứ thậm chí còn nghi ngờ cả tương lai bởi “không chắc đã sống qua được". Qua chi tiết này, nhà văn đã góp phần gián tiếp lên án, tố cáo tội ác của phát xít, thực dân, phong kiến đã dồn đẩy cả dân tộc ta vào bước đường cùng.

-Chi tiết bà cụ Tứ “ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc...” là một chi tiết thể hiện vẻ đẹp nhân văn ở người mẹ. Nếu những lần trước bà khóc trước mặt con thì lần này người mẹ ấy đã quay đi giấu nước mắt của mình, bởi hôm nay là ngày vui của các con, bà không muốn cảm xúc của mình làm ảnh hưởng tới các con, không muốn con vì mình mà phải bận tâm.
Vợ nhặt.png

Vợ nhặt. Ảnh mạng.
2. Ở đoạn văn tiếp theo, người vợ nhặt mang đến thông tin mới mẻ về Việt Minh.

- Người vợ nhặt ngạc nhiên bởi “Ở đây vẫn còn đóng thuế cơ à?". Sự ngạc nhiên ấy có nguyên nhân từ sự hiểu biết chính trị của thị, bởi: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy".

-Liệt kê các địa danh Thái Nguyên, Bắc Giang, vừa chỉ vùng đất xa xôi, vừa mang đến thông tin cách mạng về sự vùng lên của nhân dân ở những vùng xa xôi hẻo lánh.

-Các từ ngữ như không chịu đóng thuế", "phá kho thóc Nhật" thể hiện sự quyết liệt trong tranh đấu, sự vùng lên của nhân dân chống lại áp bức bất công.

-Thông tin mới mà ấy khiến Tràng như bừng tỉnh, anh liên kết câu chuyện của vợ và những người đi phá kho thóc Nhật, rồi chợt hỏi “Việt Minh phải không?". Bởi lúc này Tràng đang quay về trong ký ức chưa xa của mình về hình ảnh "những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm". Tràng “láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh... Họ đi cướp thóc đẩy". Trong hoàn cảnh lúc ấy Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác.

- Sau khi được người vợ giác ngộ, Tràng nhận ra: "Ả ra họ đi phủ kho thóc chia cho người đòi. Tự dưng hẳn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. " Sự ân hận, tiếc rẻ vẫn vợ của Trùng tuy còn mơ hồ nhưng cho thấy, Tràng đã hiểu ra được ý nghĩa và việc làm của Việt Minh. Việc làm của Việt Minh là phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Anh tiếc vì mình đã không nhận ra điều ấy sớm hơn, tiếc vì mình đã không đứng trong đoàn người ấy.

3. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh lá cờ đỏ và niềm tin của Tràng vào tương lai tươi sáng.
“Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”

- Âm thanh tiếng trống thúc thuế lần thứ hai xuất hiện, vẫn ám ảnh, đe dọa. Nhưng đối lập với âm thanh ấy là hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng. Hình ảnh ấy gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, là sự vẫy gọi mãnh liệt của tương lai. Kết thúc này là kết thúc hợp lý, bởi kết thúc ấy đã góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân nhà văn trân trọng khát vọng sống mãnh liệt của con người lao động; là niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.

-Hình ảnh “lá cờ đỏ” và “đoàn người đói lặp lại hai lần ở đoạn cuối như tính vẫy gọi và dự báo của tác phẩm, rằng: Tràng sẽ xuất hiện trong đoàn người đó, dưới lá cờ đó, anh sẽ đi theo cách mạng, bởi chỉ cách mạng mới thực sự mang lại sự đổi đời cho những người nông dân.
Thêm
Phân tích đoạn kết trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
18K
2
1

Bài Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân" của bạn Thái Thị Thanh Lam - bài văn đạt giải nhì cuộc thi HSG Ngữ văn cấp tỉnh (Nghệ An) năm học 2020 - 2021.​

có một anh tràng như thế.png
Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Kim Lân đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm neo đậu mãi trong trái tim của bạn đọc về hình tượng nhân vật anh cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Anh là một người nông dân nghèo khổ, xấu xí nhưng mang một tấm lòng ấm áp tình yêu thương và lòng nhân hậu.

nhà văn từng nói “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con người cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan trọng nhất của văn học. Nhân vật văn học là một khái niệm không còn quá xa lạ đối với chúng ta. Đó là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Và mỗi nhà văn sẽ tập trung tất cả những hình họa nghệ thuật, những quan niệm cuộc sống và nhân vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc. Để từ đó khi chúng ta tìm hiểu một nhân vật, chúng ta cũng thấy được khía cạnh bức tranh xã hội lúc bấy giờ và nỗi niềm của người nghệ nhân khi đứng trước nó. Chẳng hạn như trong Chí Phèo của Nam Cao, ta thấy được bản chất lương thiện của một con người lưa manh trong xã hội thực dân nửa phong kiến, qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố then chốt góp phần tạo nên thành công của một tác phẩm, như “xương sống của một con người vậy”. Viết đề tài người nông dân, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lao động nghèo khổ, chân lấm tay bùn nhưng mang một phẩm chất đẹp đẽ như nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

Kim Lân là một cấy bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân chất phác, thật thà và đậm tình người ở những làng quê Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên mỗi trang viết. Với cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khă năng phân tích tâm lý nhân vật thiên tài, ông đã để lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về người dân quê - những con người gắn bó rất tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm được xây dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm mà người ta vẫn nhắc đến như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời dựa trên một cốt truyện cũ với nhau để “Xóm ngụ cư”, được in trong tập “ Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm kể về anh cu Tràng - một thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo xe bò thuê. Dù trong tình cảnh đói kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Sự việc khiến cả xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng - bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên và lo lắng. Nhưng qua đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào cách mạng, vào tình người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào

Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi”, đó là thân phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng - một nhân vật điển hình như thế với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ cư - tầng lớp người bị coi thường nhất lúc bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “túp lều tranh nằm rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói này. Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng cũng cực nhọc vô cùng. Sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến biết bao là xác chết năm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy yếu tố của một loại người đáng bị coi khinh. Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó được ví như “sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất hiện đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời, chửi đất...” thì Kim Lân lại đưa vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi ngất ngưỡng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại ngữa mặt lên cười khành khạch”. Tác giả khi xây dựng nhân vật này không tập trung miêu tả ngoại hình mà chỉ chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai cũng thấy, ngoại hình ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau chuốt của xã hội văn minh. Bên cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ nét hơn khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng trước mặt cứ gằm lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưỡng trước đây ở Tràng. Tạo hóa đã ban cho anh cái xấu mà không hề thương xót. Phải chăng cách xây dựng nhân vật có số phận như thế là dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân?! Để từ đó người nghệ sỹ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên trong của con người Tràng!

Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hào hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm ra vây lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã sẳn sàng cưu mang người đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh cũng là tầng lớp đang bị cái đói hoành hành. Tuy nhiên “Thương người như thể thương thân”, anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết, sẳn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ. Tình thương người với người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người tưởng chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu thương con người của Tràng. Đó cũng chính là dụng ý của nhà văn Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu mang người khác, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn anh đánh rơi tình người ở đâu mất rồi?. Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân chính, những nhà nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng, văn chương là vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!

Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình huống Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến anh không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người cùng cảnh ngộ “quần áo rách như tổ đỉa trên khuân mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Cái đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô thiễn, trơ trẽn bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Vẻ đẹp tình người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm của nạn đói. Và cũng chỉ một câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng “ Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về mà thị đã theo Tràng về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất nỗi lo sợ về cái đói, cái chết, “ Thóc gạo này đến cái thân mình cũng có nuôi nổi hay không mà còn đeo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là cái thời đói kém như thế này. Nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”. Kệ ở đây không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà là cái kệ trong niềm tin mãnh liệt vào tương lai, cái “kệ” trong hành động của con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang cận kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau mình tất cả nổi sợ hãi, mọi lo nghĩ để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã chứng kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để nuôi những đứa con khác, duy chì miếng sinh nhai, một anh Đĩ Chuột phải tự tử để nhường lại miếng cơm cho vợ và con mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang người khác. Tình thương đã cho anh quyết định dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó còn tiềm ẩn cái khao khát hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước. Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá thành công những vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân như Tràng - giàu tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang những kiếp người khổ hơn mình.

Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở thành một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia đình. Ta nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người bạn đời của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “ mua cho thị cái thúng con đựng lặt vặt”, đưa vào hàng cơm “ đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”. Chăm sóc từng cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con không chỉ đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ giống như những người khác, để thị có thể tự tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà bằng tay không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi” khi chi hẳn hai hào mua dầu để thắp sáng cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn cười lại vừa xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn đêm tân hôn của mình sáng lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi thân trong buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẳn sàng đánh đổi cho niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng như cho hy vọng của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!

Ai đó đã từng nói rằng “Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người thay đổi một cách kỳ lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi đầu lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phở khác thường”, “ tủm tỉm cười”, “ hai mắt sáng lên lấp lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi bên vợ. Bởi vốn dĩ anh chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ có được hạnh phúc giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không chỉ mang đến một luồng sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Phải chăng sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự thay đổi của con người khi người ta nâng niu và ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn! Từ câu chuyện của hai con người dưới đáy của xã hội dường như đã mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến nhẹ nhàng và bình yên. Nó như nhắn nhủ với chúng ta một điều “Trong những hoàn cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người thì chắc chắn sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường”.

Khi đem thị về nhà, Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống như một đứa trẻ. Trong lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu. Tràng vui vì hạnh phúc quá lớn, “ Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia đình. Nhưng rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy vào sân. Khi thấy mẹ, “Tràng reo lên như một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho chĩnh chện rồi mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà Tràng còn là một người con hết mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu với mẹ, “Kìa nhà tôi nó chào u đấy”. Kim Lân quả thật rất tài tình trong việc xây dựng lời thoại rất ít chữ nhưng chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái người mà Tràng gọi “nhà tôi” ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà nhặt được theo không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ như tổ đỉa. Tuy nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết sức thân thương, trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín chắn về việc hệ trọng cả đời người. Đến với nhau chỉ bằng bốn bát bánh đúc nhưng Tràng đã dành trọn tình thương, tình yêu cho người đàn bà xấu số kia, mở ra những ngày tháng hạnh phúc đang chờ phía trước. Như nhà văn Kim Lân đã chia sẻ “Tôi muốn họ vào trong sự sống, sự yêu thương nhau... dù trong hoàn cảnh cùng đường, bế tắc nhất”.

Song song với niềm hạnh phúc vứa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở Tràng một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ đi ra”. Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh chóng, niềm vui sướng ngập dâng trong lòng, … bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn bó với căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành, từ vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc lứa đôi. Từ trách nhiệm với cá nhân gia đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào tương lai phía trước. Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên bờ vực thẳm, anh vẫn đi tìm sự sống “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”. Và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay vào đó là những ngày vui, ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm được tỏa sáng hơn bao giờ hết, tình thương, tình yêu giữa người với người đã thắp lên hy vọng, niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp!

Với tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng tạo và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, cái lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó phỏng theo, giản dị nhưng ánh lên một vẻ hào hoa lạ kỳ của nhà văn. Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là cách nhìn đời, nhìn người đầy xót xa, thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua thiên truyện ngắn. Tràng không may mắn khi tạo háo ban cho ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn, bị cuộc sống bùi dập đến đường cùng nhưng anh vẫn luôn khát khao được sống hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai trong cái tối tăm, đói kém của xã hội bấy giờ. Viết về nạn đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào chính đáng bằng khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù cuộc đời có bi thảm đến đâu thì vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.

Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn trước năm 1945. Đó là Nam Cao với hình ảnh “Chí phèo” bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng vẫn khát khao được làm người, nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh chi Dậu phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho gia đình. Điểm chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm nhưng vẫn khát khao vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị Dậu, Chí Phèo.... đều phải bước vào đường cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn Tràng, khi được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng của cách mạng, của Đảng. Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho nhân vật, đó là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm thía nhiều bài học quý giá. Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón nhận nhiều điều tốt đẹp, vậy chẳng có lý do gì mà chúng ta không yêu thương lẫn nhau? Chưa nói đến làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ như quan tâm sức khỏe bố mẹ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cức tham gia các hoạt động thiện nguyện.... Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt đẹp hơn, yêu thêm cuộc sống này hơn. Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta được làm thêm nhiều việc tốt! Và thấm thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn người, nhìn đời – cái nhìn đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và lạc quan, tin tưởng. Chúng ta chỉ được sống có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!

Mỗi lần đọc trang văn của Kim Lân, ta lại cảm thấy như đang đón nhận một bài học nhân đạo sâu sắc qua từng nhân vật mà ông xây dựng. Thành công trong cách xây dựng nhân vật đã đưa Vợ nhặt đứng vào hàng kiệt tác của truyện ngắn Việt Nam hiện đại, đưa tên tuổi của Kim Lân lên một tầm cao mới - trở thành một tượng đài trong làng văn học Việt Nam. Và đặc biệt Kim Lân sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc yêu văn chương, yêu thêm những giá trị bất diệt trong cuộc sống - đó là tình người!

(Thái Thị Thanh Lam)
Thêm
Phân tích nhân vật Tràng - bài văn giải nhì cuộc thi HSG cấp tỉnh
  • Like
Reactions: Vanhoctre
12K
1
1
Nhân vật bà cụ Tứ là một trong những nhân vật quan trọng góp phần đánh bật lên giá trị tình người trong tác phẩm "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân. Hãy cùng điểm qua những nét chính về nhân vật này nhé.

Vợ Nhặt (2016).jpg

Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện "Vợ nhặt". Ảnh mạng.
1. Bà cụ Tứ là người mẹ nông dân nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương Sự xuất hiện của bà ở giữa truyện khiến người đọc vừa bất ngờ vừa ái ngại, xót xa.

- Tuổi tác đã xế chiều: dáng đi “lọng khọng”, vừa đi vừa “húng hắng ho” là biểu hiện của sự tiều tụy, già yếu.
- Gia cảnh đáng thương: là dân ngụ cư với thân phận nghèo hèn; nhà cửa thì “rúm ró" lụp xụp, tồi tàn; bà góa bụa, chỉ có con trai làm chỗ dựa nhưng anh ta lại chẳng được thông minh như con nhà người.

2. Bà cụ Tứ là người mẹ nhân hậu, bao dung, giàu lòng thương con, giàu anh yêu thương người đồng cảnh ngộ. Tất cả những vẻ đẹp ấy đã ngồi lên thật trọn vẹn qua những diễn biến tâm lý của bà trong “cảnh đón dâu”.
a. Bà ngạc nhiên vì sự xuất hiện của người khách lạ:

-Sự việc quả bất ngờ khiến bà chưa chuẩn bị tâm lý. Bà "đứng sững lại", “phấp phỏng”, băn khoăn, phân vân, hồi hộp, lo lắng...không biết điều gì đang xảy ra trong căn nhà.
- Hàng loạt các câu hỏi được đặt ra đã chứng tỏ tâm trạng người mẹ đang rối bời, đắn đo, nửa như muốn tin, nửa không dám tin.

b. Hiểu cơ sự, bà thương con, vừa xót xa tủi thân tủi phận:
- Bà thương con, xót xa cho con. Bà hiểu được con trai mình lấy vợ được là do may mắn, nếu nạn đói không xô đẩy người đàn bà kia vào bước đường cùng thì con trai bà chẳng có được vợ.
- Bà tủi thân cho mình, thấy mình bất lực, thấy mình không làm tròn bổn phận của người mẹ khi không lo cho con mình được cái đám cưới ra trò. Bà cũng xót xa ái ngại cho cô con dâu, đồng cảm cho sự cùng đường trong nạn đói.

c. Bà mừng lòng cho đôi vợ chồng son
- Gạt đi bao tủi hờn bà “Mừng lòng" chấp nhận cuộc hôn nhân. Sự đồng ý đó chứa đựng sự bao dung, nhân hậu, giàu tình thương yêu của mẹ dành cho các con.
- Bà chia sẻ với con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chả ai chấp nhặt chi lúc này". Câu nói vừa là sự thanh minh của mẹ về gia cảnh, vừa là nỗi lòng áy náy không yên. Làm được dăm ba mâm thì mới thành đám cưới, có đám cưới thì mới danh chính ngôn thuận. Làm được dăm ba mâm thì con trai bà cũng đỡ tủi, làm được dăm ba mâm thì cô con dâu cũng không phải mang tiếng là “vợ nhặt”. Hóa ra ngay trong đòi nghèo, ngay trong sự tấn công quyết liệt của chết chóc như thế, tình người chẳng những không bị hạ thấp mà còn được đề cao. Ý nghĩ của bà cụ Tứ chính là ý nghĩ nâng cao giá trị của con người.
- Bà khát khao cho đôi trẻ nên người: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá...". "Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi". Đó là lời dặn đò, lời mong mỏi đầy yêu thương và trách nhiệm của người mẹ.

d. Bà lo lắng cho đôi vợ chồng son

Nghĩ đến cuộc đời dài dằng dặc đầy đau khổ của mình, lại nghĩ năm này thì đói to đấy" bà lo lắng. “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”, “cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?". Đó là sự trăn trở, băn khoăn của tấm lòng người mẹ giàu đức hi sinh, giàu tình thương con.

3. Bà cụ Tứ là người mẹ lạc quan, giàu niềm tin vào cuộc sống. Niềm tin của bà đã phả vào tâm hồn đôi trẻ một nguồn sống mới. Vẻ đẹp ấy hiện lên sinh động nhất qua diễn biến tâm trạng của bà trong buổi sáng hôm sau:

- Bà động viên con bằng niềm tin ngàn đời của dân tộc: “Ai giàu ba họ ai khó ba đời". Trong bữa ăn ngày đói bà còn bàn tính chuyện nuôi gà và mong mỏi: "chẳng mấy chốc có ngày đàn gà cho mà xem”. Đó là câu chuyện đầy. lãng mạn trong hoàn cảnh khốn cùng nhưng lại chứa đựng niềm tin và khát vọng sống mãnh liệt ở bà. Bà tin rằng: sự sống sẽ lấn át cái chết, sự sinh tồn sẽ lấn át sự hủy diệt.

- Trong buổi sáng đầu đón nàng dâu, bà cụ dậy sớm vun vén nhà cửa, khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên". Đó là hình ảnh cho một cuộc sống mới với tin yêu và hi vọng.

- Chi tiết bát chè khoán là một chi tiết nghệ thuật đầy cảm động. Với bà cụ Tứ, đó là hiện thân vẻ đẹp của tình mẫu tử, là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống: “một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “lá lành đùm lá rách". Bát chè khoán đắng chát là hiện thân cho sự khốn cùng nhưng ấm áp tình người trong nạn đói. Điều đó minh chứng cho tuyên ngôn của Kim Lân. “Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Đói. Nó vừa cay đắng vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự.”
Thêm
Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ
960
0
1

Triều Anh

Người yêu của văn chương ❤️
Thành viên BQT
3/12/22
606
440
63,000
Sóc Trăng
Xu
6,078,826
Kiến thức trọng tâm về nhân vật bà cụ Tứ rất đầy đủ. Tuy nhiên phải có luôn bài văn nghị luận thì quá trình tự học của học sinh sẽ tốt hơn!
 
Nội dung cần nêu ra trước khi vào phần So sánh và đánh giá phần kết thúc truyện ngắn Chí phèo của Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân:

* Giới thiệu Nam Cao, tác phẩm Chí phèo và kết thúc truyện ngắn Chí Phèo. Giới thiệu về tác giả Kim Lân, tác phẩm Vợ nhặt, kết thúc truyện Vợ nhặt

* Ý nghĩa kết thúc truyện ngắn Chí Phèo:

- Khái quát nội dung truyện ngắn và cuộc đời Chí phèo:​

+ Truyện kể về cuộc đời Chí phèo, một đứa trẻ mồ côi vô thừa nhận. Chí phèo được người làng nhặt về nuôi đến 20 tuổi làm canh điền cho cụ Bá. Vì ghen tuông Bá Kiến đẩy Chí đi ở tù.

+ Sau 7,8 năm đi tù về từ một người hiền lành, lương thiện, Chí thành mộ con quỷ dữ, tay sai cho Bá Kiến, gây bao tội ác cho dân làng.

+ Sau khi gặp Thị Nở, bản chất lương thiện của Chí trỗi dậy. Chí mong muốn Thị giúp mình trở lại cuộc sống bình thường nhưng không được bởi bị Thị cự tuyệt. Quá đau đớn, phẫn uất. Chí phèo đến nhà Bá Kiến giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình.

Cuộc đời Chí từ một người nông dân hiền lành, lương thiện bị tha hóa, bị hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính, trở thành “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại” cuối cùng sau bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, Chí Phèo tự kết liễu cuộc đời mình.

- Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh cái lò gạch cũ:

Truyện ngắn Chí Phèo kết thúc bằng hình ảnh: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại”. Đây là một kết thúc gợi ra rất nhiều suy ngẫm với người đọc:

+ Cái lò gạch cũ là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi. Khi vừa mới chết hình ảnh này lại xuất hiện trong đầu của Thị Nở ở kết thúc truyện tạo sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch bị tha hóa và bị cự tuyệt về quyền làm người của người nông dân.

+ Kết thúc truyện thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà văn: đồng cảm tới nỗi thống khổ người dâ, trân trọng khát vọng lương thiện của họ.

+ Truyện kết thúc bằng việc lặp lại phần mở đầu tạo kết cấu vòng tròn lẩn quẩn của thân phận Chí Phèo hay chính thân phận những người nông dân nghèo, giúp tô đạm dự báo về tương lai. Cuộc đời Chí Phèo tuy đã kết thúc nhưng vẫn có thể còn những tấn bi kịch Chí Phèo vẫn còn tiếp diên.

* Ý nghĩa kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt:

- Khái quát nội dung truyện ngắn và cuộc đời nhân vật Tràng.


+ Cái đói làm xóm ngụ cư tiêu điều xơ xác. Tràng một người nông dân thô kệch, xấu xí.Vào 1 buổi chiều Tràng dẫn một người phụ nữ về nhà. Người phụ nữ bằng lòng làm vợ Tràng với 4 bát bánh đúc và vài câu nói tầm phơ tầm phào.

+ Mẹ Tràng đón nhận nàng dâu mới trong tâm trạng vừa mừng, vừa lo, vừa tủi… Đêm tân hôn diễn ra trong không khí chết chóc, buồn tủi…

+ Sáng hôm sau thay đổi tâm lí của Tràng, cô vợ nhặt, bà cụ Tứ. Bà mẹ đãi hai con nồi chè cám.. Trong lúc ăn qua lời kể của Vợ Tràng dần hiểu ra Việt Minh là ai và trong đầu hiện lên hình ảnh người đói kéo nhau đi phá kho thóc của Nhật, phía trước lá cờ đỏ bay phất phới.

- Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh lá cờ bay phấp phới:

+ Hình ảnh đám người đói và lá cờ hiện lên trong tâm lí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm, vừa gợi ra tín hiệu của cuộc cách mạng. Cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.

+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân trân trọng khát vọng sống, nga bên bờ vực của cái chết của người lao động nghèo niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.

+ Hình ảnh kết thúc truyện là hi vọng tươi sáng của hiện thức tăm tối, đó là âm hưởng lạc quan.

+ Kết thúc truyện kiểu kết thúc mở giúp thể hiện được xu hướng vận động của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện, tạo khoảng trống để người đọc suy nghĩ, phán đoán.

* So sánh sự tương đồng và khác biệt:

- Tương đồng

+ Hai kết thúc truyện phản ánh hiện thực tối tăm của con người trước cách mạng tháng 8.

+ Thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn.

+ Kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.

- Khác biệt:

+ Kết thúc Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động được thể hiện qua kết cấu đầu, cuối tương ứng. Hàm ý tương lai chỉ là sự lặp lại của hiện thực, nhân vật trong truyện chưa tìm được hướng đi cho mình.

+ Kết thúc Vợ nhặt: Phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người được thể hiện qua kết cấu đối lập, hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại, nhân vật truyện bắt đầu thức tỉnh và tìm được con đường giải phóng.

- Lí giải sự khác biệt:

+ Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử: NC viết CP trong hoàn cảnh đen tối của xã hội VN lúc bấy giờ. Kim Lân viết Vợ nhặt sau hòa bình lặp lại khi dân ta đã đi qua 2 mốc lớn của lịch sử là cách mạng tháng 8 và cuộc kháng chiến chống Pháp. Ánh sáng cách mạng giúp nhà văn thấy được hướng vận động và phát triển của lịch sử.

+ Do khuynh hướng Văn học và phương pháp sáng tác:

@ Chí Phèo: Khuynh hướng Văn học hiện thực phê phán, Nam Cao phản ánh hiện thực tăm tối nhằm phê phán xã hội. Nhà văn yêu thương con người nhưng vẫn chưa thấy được lối thoát của người nông dân trong xã hội bấy giờ.

@ Vợ nhặt: khuynh hướng văn học hiện thực CM. Cách mạng đã soi đường nên nhân vật trong sáng tác của ông đã tìm được con đường đi cho mình.

+ Do tài năng và tính cách sáng tạo của nhà văn: Cùng yêu thương tin tưởng con người. Nam Cao có cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh trước hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Kim Lân lại cho rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào người nông dân có thể vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui mà hi vọng.
Thêm
804
5
3
Từ cảnh ngộ lầm lũi xót xa, nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” vẫn có được thời khắc bừng lên sức sống mãnh liệt. Đặc biệt, nhà văn Tô Hoài đã chứng minh rằng đằng sau người phụ nữ tưởng chừng như đã buông xuôi hết mọi thứ ấy vẫn tồn tại một trái tim đầy lòng nhân ái được thể hiện rõ nét trong đêm mà Mị cứu A Phủ.

xkk (50).png


BÀI LÀM MẪU

Mảnh đất Tây Bắc với thiên nhiên núi rừng hùng vĩ và con người nồng hậu chất phác luôn để lại trong mỗi người ấn tượng sâu sắc. Tuy không sinh ra ở Tây Bắc, nhưng những năm tháng sống và trải nghiệm cùng người dân nơi đây đã để lại cho nhà văn Tô Hoài nhiều tình cảm sâu sắc, từ đó ông viết thành truyện ngắn vợ chồng A Phủ, kể về cuộc đời Mị-cô gái Mèo xinh đẹp, tài năng nhưng phải chịu nhiều đắng cay, khổ cực. Và bước ngoặt lớn nhất của cuộc đời Mị, cũng là của tác phẩm chính là đêm đông chị cởi trói cho A Phủ.

Mị là cô gái vùng cao xinh đẹp, có tài thổi sáo,nhiều chàng trai theo đuổi. Nhưng lẽ đời vốn thế, hồng nhan thì bạc phận,vì món nợ gia đình khi bố mẹ lấy nhau mà Mị bị A Sử-con thống lí Pá Tra lợi dụng tập tục cổ hủ bắt về làm con dâu gạt nợ. Từ đó, cuộc đời cô bước sang những tháng ngày tăm tối thấm đẫm nước mắt. Cuộc sống cơ cực, tủi nhục ở nhà thống lí Pá Tra đã vùi dập hết sức sống, nhận thức của Mị.

Ban đầu cô còn phản kháng, khóc lóc, toan ăn lá ngón tự tử nhưng rồi thương cha nên Mị tiếp tục sống, lâu dần, Mị mất hẳn ý thức về cuộc đời, về thời gian, không gian, “ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen rồi”, Mị sống mà như đã chết, không còn cả chút ý niệm nào về cuộc sống diễn ra xung quanh.

Tuy nhiên, với sự tinh tế và nhạy cảm, Tô Hoài đã làm sống dậy nhân vật của mình trong đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình ngân vang, tiếng sáo như một hiện hữu trong tâm hồn Mị, thổi bùng lên đốm lửa khao khát tự do, khao khát thanh xuân bấy lâu nay âm ỉ cháy trong sâu thẳm. Nhưng rồi A Sử đã nhẫn tâm dập tắt đốm lửa ấy, hắn trói cô vào cột, tàn nhẫn không để chút niềm tin sống nào len lỏi lên trong người con gái khốn khổ.

Còn A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, vì tội đánh con quan mà phải sống kiếp nô lệ trả nợ, trong một lần mải mê bẫy nhím để hổ bắt mất con bò, A Phủ bị trói đứng vào cột cho đến khi A Sử săn được hổ. Suốt mấy ngày liền gió rét dữ dội, hàng đêm Mị lại trở dậy hơ tay,thản nhiên không quan tâm đến A Phủ bị trói ngay đấy, “dù cho A Phủ có là cái xác đứng đấy cũng vậy thôi”.

Không phải vì cô quá vô tâm độc ác mà vì những chuyện như thế vẫn thường xuyên, thường ngày diễn ra trong nhà này, Mị đã quá quen với những bất công vô lí mà chính cô cũng từng là nạn nhân của chúng. Bỗng một đêm, Mị lén nhìn sang,chợt thấy dòng nước mắt của A Phủ lăn xuống gò má xám xịt tím ngắt vì rét và đói, giọt nước mắt ấy đã làm nhói lên lòng yêu thương trong Mị. Mị nhớ lại đêm xuân ấy, mị cũng bị trói đứng như thế, nước mắt chảy xuống vô kể mà không làm sao lau hết được, Mị nhớ lại câu chuyện người đàn bà từng bị trói đến chết cũng ngay ở chỗ đó,cô căm thù tội ác của bọn giặc thống lí.

Mị xót thương cho số phận của mình rồi xót thương cho A Phủ “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” Mị căm ghét những tập tục cổ hủ đã ép buộc cô phải sống đến chết cũng phải rũ xương ở nơi này, nhưng A Phủ không bị trình ma thì việc gì anh ta phải chết thế. Diễn biến tâm lí của Mị phức tạp nhưng cũng rất tự nhiên, hợp lí, từ vô cảm đến xót thương, thương cho mình, thương cho người rồi căm hận sâu sắc bọn chúa đất cường hào “chúng nó thật độc ác”.

Mị muốn cởi trói giải cứu A Phủ, Mị thoáng nghĩ về hậu quả sẽ bị trói thay vào đấy đến chết nếu bị phát hiện, nhưng lúc này “dù có làm sao Mị cũng không thấy sợ” rồi không dừng lại ở suy nghĩ, Mị hành động, cô cầm con dao mây cắt dây cởi trói cho A Phủ. Hành động liều lĩnh này xuất phát từ lòng yêu thương, nỗi xót xa cho thân phận mình và cho những kẻ đồng cảnh ngộ.

Sau một hồi đứng lặng trong bóng tối nhìn theo A Phủ, Mị chạy với theo, rồi hai người trốn sang Phiềng Sa nên vợ nên chồng. Hành động này là hệ quả tất yếu của quá trình bị áp bức, đè nén, cần được giải tỏa của con người, đồng thời nó cũng khẳng định ý nghĩa cuộc sống và khát vọng tự do đến cháy bỏng của nhân dân lao động miền núi.

Với hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã chứng tỏ khả năng phân tích diễn biến tâm lí nhân vật sắc sảo, thể hiện nỗi đau xót đến tận cùng của một số phận đắng cay,đồng thời là sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng mãnh liệt của Mị thể hiện qua đêm tình mùa xuân và đặc biệt là đêm đông cứu A Phủ. Qua hành động đó, tác giả đã chứng minh một chân lí : Chỉ cần tình yêu thương và lòng dũng cảm, con người có thể cùng lúc thoát ra khỏi hai nhà tù ớn lạnh : cường quyền và thần quyền.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết liên quan:
TẠI ĐÂY
Thêm
Cảm nhận của về vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
  • Like
Reactions: Ngu Van
612
1
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top