Xuân Diệu - nhà thơ tình lớn

Nhân dịp Kỷ niệm 90 năm Phong trào Thơ mới, 1932-2022, ông Đoàn Minh Tuấn có viết về Xuân Diệu đăng trên trang truyền thông chính thức của Nhà văn Việt Nam. Trong bài viết có đề cập tới kỉ niệm người thật việc thật khi được gặp một Xuân Diệu sống của ông và những nhìn nhận đánh giá từ góc độ cá nhân ông Tuấn. Mời các bạn cùng đọc bài viết này.
nhà thơ Xuân diệu.png

Xuân Diệu – nhà thơ tình lớn​

Xuân Diệu đã nổi danh từ “Thơ Thơ – 1938” với lời tựa của Thế Lữ: “Ở tình cảnh nào, Xuân Diệu cũng có lời mềm mại hoặc sáng lạn, đê mê, hoặc là lả lơi sung sướng, hoặc buồn bã thiết tha như tiếng thở than tận cõi sâu kín của tâm hồn… Hát lên những tiếng đẹp đẽ ngọt ngào đã yên ủi được chúng ta trong cuộc đời hiện thực”.

Xuân Diệu sinh năm 1916. Họ Ngô. Thuở nhỏ ông học chữ Nho, chữ Quốc ngữ và cả tiếng Pháp với cha là “ông đồ” xứ Nghệ Tĩnh, quê ở làng Trảo Nha nên ông có bút hiệu là Trảo Nha, Xuân Diệu thường nói với tôi: “Trảo Nha là nanh vuốt đó!”. Năm học ở Quy Nhơn – quê ngoại – đỗ bằng thành chung 1934. Ra Hà Nội 1935 học tú tài phần nhất, phần hai học ở Huế 1937. Từ 1938-1940 dạy học ở Hà Nội. Đến năm 1940 làm tham tán thương chính (hải quan) ở Nhà Đoàn tỉnh Mỹ Tho. Năm 1944, ra Hà Nội cùng Huy Cận tham gia hoạt động Việt Minh. Và ở Hà Nội cho đến cuối đời, ông mất vào mùa đông 1985 với 69 tuổi đời, nhưng đã để lại một di sản văn học đồ sộ, 49 tác phẩm thơ văn là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Đức.

Tôi cũng có nhiều kỷ niệm với Xuân Diệu lúc tập kết ra Bắc. Xuân Diệu là nhà thơ nổi tiếng, đại biểu Quốc hội, lại là nhà văn viết bút ký chính luận tài hoa. Khi ở Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi phụ trách buổi phát thanh vào Nam. Tôi thường đến nhà ông “gõ cửa” đặt bài. Văn của ông trong sáng, giàu hình tượng dễ thuyết phục văn nghệ sĩ, trí thức miền Nam. Ông thường cắm cúi làm việc. Bàn viết với hoa tươi, ông như một con ong thợ miệt mài bên trang giấy, sáng nào ông cũng tập thể dục, rồi ngồi vào bàn viết đến khuya. Ngày ngày đều như thế. Mỗi lần tôi đến, ông lại ngẩng đầu lên: “Mình đang viết bài trả nợ cho cậu đây!”.

Vào khoảng cuối năm 1968, giặc Mỹ leo thang đánh phá ác liệt vào vùng “Cán xoong” Khu 4 cũ bằng hải quân và không quân. Có lần tôi cùng ông đi từ Hà Nội vào Vĩnh Linh tháp tùng đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam do bác sỹ Phùng Văn Cung dẫn đầu ra thăm miền Bắc. Đêm đêm chúng tôi ngủ chung dưới hầm địa đạo, hoặc trong các trận địa pháo cao xạ. Nhiều đêm Xuân Diệu đọc thơ và nói chuyện phục vụ đồng bào, chiến sỹ, giáo viên, học trò vùng có chiến sự. Tôi là người được nhiều lần nghe ông bình thơ, có khi ông thường bảo tôi: “Tuấn đi ngủ sớm, hôm nay mình vẫn đọc thơ cho chiến sỹ như lần trước”.

Cả cuộc đời thơ của ông, ông như người diễn viên, diễn giả về thơ đến trên 500 lần. Tô Hoài nói: Đây là thói quen rất quý của anh, bao nhiêu năm tôi đi thực tế cùng Xuân Diệu vẫn thế. Có lần chúng tôi lên huyện Giằng (Quảng Nam) sáng sớm qua huyện Đại Lộc. Tôi hỏi nay đi đâu? Anh nói, đi nói chuyện thơ với giáo viên toàn huyện. Vài lần ông được mời sang tận Paris nói chuyện với giáo sư, sinh viên Đại học Sóc-bon về “Sự đóng góp của thơ Pháp vào thơ Việt”, kể cả các diễn đàn hội nghị các nhà văn châu Á và hòa bình thế giới, ông không bỏ lỡ dịp trên thi đàn thế giới nói chuyện thơ Việt Nam kháng chiến.

Những ngày công tác cùng ông ở Khu 4, vùng giặc Mỹ đánh phá ác liệt, đêm đêm ông vẫn che đèn đọc sách, cả sách Tây, sách Tàu, sách ta, hoặc dịch, hoặc sáng tác, ghi chép. Và ông bảo ban tôi bao kinh nghiệm sống, kinh nghiệm viết. Mỗi lần viết bài, ông “tận dụng” nói chuyện, đưa đài phát thanh đọc, và in báo địa phương (nếu hợp) và in báo Trung ương, rồi in sách. Ông “thâm canh” như vậy! Ông khuyên tôi văn ôn võ luyện, rèn mãi sẽ thành.

Bữa nọ cũng ở Khu 4, một chiều im tiếng súng, tôi và ông tìm ra một bến sông, mua trái chuối hoặc chất tươi gì bồi dưỡng, vì suốt cả tuần ngồi xe bị táo bón. Và kia một chiếc cầu nhỏ ở phía Nam Đồng Hới, nói là chiếc cống thì đúng hơn vì chỉ 10m chiều dài – mà hàng trăm hố bom lỗ chỗ hai bên đầu cầu. Thế rồi máy bay ào đến. Tôi và ông chui xuống một hố bom nấp. Máy bay lại rải đạn tứ tung, may không việc gì. Xuân Diệu nói: “Nếu cậu chết mình cũng phải bị kỷ luật đấy, vì bỏ đoàn trốn đi”. Tôi nói: “Anh mới là vốn quý, tài sản của quốc gia, còn em có ăn nhằm gì!”. Thế là hai anh em cùng níu tay, đỡ nhau dậy và cười vui.

Nhìn chiếc cầu đung đưa rất yếu, anh bảo tôi làm mấy câu thơ và anh nói: “Tuấn làm thơ được đấy, sao không làm”. Tôi thưa: “Anh là thi bá, thi hào, còn tôi có thể đọc vài câu ca dao thôi. Tôi đọc bài hát ru của ngoại tôi lúc nhỏ: Qua cầu, cầu yếu phải nương. Chầu rày bạn cũ thôi thương mình rồi…”. Xuân Diệu bảo: “Hay, ồ hay quá, câu này mình chưa nghe, chờ mình rút sổ tay ghi nhé!”, rồi tôi tiếp:

Tai nghe bạn cũ có đôi
Trong lòng nóng nảy như vôi mới bầm
Nắm tay bạn cũ khóc thầm
Chầu rày hương đã xa trầm, trầm ơi!


Xuân Diệu bảo: “Hay quá! Ông bà mình xa xưa yêu nhau tha thiết, thiết tha lắm!”. Rồi anh khẽ ngâm:

Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào?


Tác phong của Xuân Diệu là thế! Anh là Viện sĩ Hàn lâm nghệ thuật của quê hương Goethe, Beethoven, Hegel và của Marx mà anh đi học từng câu ca của quần chúng như thế! Như nhà thơ Tố Hữu đã đánh giá khi Xuân Diệu mất: “Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, đặc sắc, độc đáo của nền thơ hiện đại Việt Nam… cho tới nay và những năm tháng trước mắt liệu có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình? Và không ai có thể thay thế được Xuân Diệu”.

Năm mươi năm làm thơ ông đã xuất bản được 17 tập thơ. Trong đó có 400 bài thơ tình chưa in, 7 tập truyện ngắn và bút ký, phê bình tiểu luận về thơ 19 tập và 6 tập dịch thơ của các thi hào trên thế giới như Nadim Hitmet (1962), Maiakovsky (1967), Dimitrova (1968), Tagore (1956), Nicolai Ghiden (1982). Và các công trình nghiên cứu về các nhà thơ lớn của Việt Nam như: Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Trần Tuấn Khải và bao nhà thơ cổ điển, hiện đại khác. Thơ và tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới. Ông trở thành nhịp cầu của kho tình thơ cả loài người. Và theo Chế Lan Viên: “Xuân Diệu là cả một viện nghiên cứu văn học trong anh”.

Nhà văn lão thành Nguyễn Tuân hôm tang lễ đã xúc động thốt lên: “Nhà thơ Xuân Diệu mất đi, thấy có mang theo một mảng đời văn tôi”, nhà thơ Hoàng Trung Thông nói hộ cho bao người: “Đau lòng thay! Mất một nhà thơ lớn. Mất một người bạn và về thơ anh là bậc đàn anh của tôi”.

Có lần Vũ Quần Phương vào bệnh viện thăm ông lúc ông sắp xa lìa nhân thế. Vũ Quần Phương ý định cùng Hữu Nhuận làm tuyển phê bình thơ của Xuân Diệu, hỏi ông về sức khỏe. Xuân Diệu bảo: “Yếu – rồi anh nói nhỏ, nhưng chưa biết thế nào đâu. Tuyển tập phê bình của mình đến đâu rồi? Bao giờ Phấn thông vàng tái bản. Như mình, như anh Lưu Trọng Lư, in được thì in, đừng bắt “xếp hàng”!

Cho đến lúc gần ra đi, thi hào Xuân Diệu vẫn lạc quan:

Hãy để cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.


Xuân Diệu đã sống mãi với tên đường, tên trường, tên các công trình văn hóa ở quê hương Bình Định, Hà Tĩnh và Mỹ Tho, những nơi ông đã từng sinh sống và các phố thuộc các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Huế cũng đặt tên ông

ĐOÀN MINH TUẤN
 
Từ khóa Từ khóa
kỷ niệm với xuân diệu lĩnh vực thơ tình một nhà thơ lớn nhà thơ tình lớn nhà thơ xuân diệu tác phong của xuân diệu xuân diệu là một nhà thơ lớn
740
2
2
Trả lời
Điển cố trong thơ Xuân Diệu

Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ chịu những ảnh hưởng sâu sắc của lối viết phương Tây. Tuy nhiên, những đặc trưng của thơ ca trung đại, trong đó có điển cố vẫn được ông dẫn dụng trong các sáng tác của mình. Điển cố trong thơ ông không phải là một đồ cổ cũ kĩ lạc hậu trong đối tượng thẩm mỹ hay là sự vụng về, sùng cổ trong bút pháp. Ngược lại, bằng nghệ thuật sử dụng điển cố tài tình, Xuân Diệu đã góp phần chắp cánh cho Thơ mới tích cực hòa nhập với quỹ đạo tiếp nhận của công chúng đương thời.

Điển cố trong thơ Xuân Diệu.png


Thơ ca cổ điển phương Đông chuộng trầm tĩnh, chú trọng sự tương giao, tương hợp, nặng về biểu ý, biểu tình… Đó chính là cội nguồn của tư duy Thơ mới. Cho nên không hề mâu thuẫn khi trong các bài thơ của Thơ Mới, trong đó có tác phẩm của Xuân Diệu vừa chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng lại vừa yêu chuộng việc sử dụng từ Hán Việt, thi liệu, dẫn dụng các điển cố là những biểu tượng của thơ ca truyền thống. Mượn phương tiện của phương Tây, truyền tải hồn vía của phương Đông là đặc trưng của Thơ mới nói chung và của thơ Xuân Diệu nói riêng.

Một số bài thơ như Nguyệt cầm, Lời kỹ nữ, Nhị hồ, Mơ xưa… có hơi hướng cổ điển, mang tính chất hoài cổ, trang nhã, sâu sắc thâm trầm. Việc vận dụng những điển tích, điển cố vào nhóm bài này là hoàn toàn có chủ ý sáng tác. Dĩ nhiên, điển cố mang đến cho những bài thơ này nhiều giá trị thẩm mĩ độc đáo, quan trọng.

Những mộng Đường thi, Tống thi và sự nuối tiếc một thời quá khứ vàng son là cơ sở để Xuân Diệu tìm về những con người tài sắc của một thời. Họ là những minh quân, tôi hiền, giai nhân tuyệt sắc, tức những hình mẫu lí tưởng trong quan niệm về con người của chủ nghĩa lãng mạn. Những điển nhân danh là nhân vật lịch sử như Lộng Ngọc, Tiêu Lang, Bao Tự, Ly Cơ, Đường Minh Hoàng, Dương Quý Phi… không còn đơn thuần là những câu chuyện lịch sử về các giai thoại… mà hàm ẩn trong đó nhiều giá trị văn hóa, thẩm mỹ. Cái hay của việc vận dụng những điển cố này là truyền tải một tư tưởng thẩm mỹ về khát khao tìm thấy con người lý tưởng ngay cả trong tiềm thức:

… Và nàng Lộng Ngọc lấy Tiêu Lang,
Cưỡi hạc một đêm bay lên trời.
Vua Trần hậu chúa ngó trăng vàng,
Khúc Hậu đình hoa đương lên khơi.
[….] Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,
Tôi mê Ly Cơ hình nhịp nhàng
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng,
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi.
(Nhị hồ)

Trước sự bất hòa với thực tại của chủ nghĩa lãng mạn, xuất phát từ cảm hứng hoài vãng, trong Mơ xưa, Xuân Diệu mượn chuyện Chiêu Dương, Hậu Đình, chuyện Hán Cao Tổ… để tìm đến lý tưởng, những điều phi thường vượt trên hiện thực tầm thường, tù túng:

Những Chiêu Dương, những Hậu Đình tráng lệ
Đẹp vì chưng xây với oán cung phi.
Cung nhà Tần trùng điệp mái lâm ly,
Hán Cao Tổ đốt chín ngày mới hết;
Tần cung nữ ba mươi trăm, chẳng biết
Gót sen vàng liễu yếu chạy về đâu?

Không chỉ những trang giai nhân tuyệt sắc mà những người nữ vô danh như “kỹ nữ”, một đề tài quen thuộc của thơ trung đại, cũng chính là cảm thức “đồng cảm tương liên” để nhà thơ tiếc nuối quá khứ, nghiền ngẫm về cái tôi bản thể giữa cuộc đời. Lời kỹ nữ, bài thơ mượn lại điển thi ca trong bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, là tiếng lòng của một phút thoáng qua giữa mối tình đầy tri kỉ và sâu đậm – “kỹ nữ” và du khách”

Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt,
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi.
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi,
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước
(Lời kỹ nữ)

Cùng với điển nhân danh, các điển địa danh được dẫn dụng cũng làm sống lại không khí của một thời vang bóng. Hệ thống điển địa danh trong thơ Xuân Diệu trước 1945 có số lượng khá lớn, chủ yếu có nguồn gốc văn hóa Hán học, có tác dụng to lớn trong việc phục dựng không gian quá khứ là không gian đẹp đẽ, mỹ lệ, trang trọng, đối lập với không gian chật hẹp, tầm thường trong hiện tại. Ví như, trong Nguyệt cầm, một bến “Tầm Dương” mơ về với dư âm tiếng đàn vang vọng đã làm cho thiên nhiên âm nhạc và con người tương tư, hòa lẫn trong nhau. Nếu tiếng đàn của Bạch Cư Dị hiện lên với những cung bậc tâm trạng của người kĩ nữ bị ruồng bỏ, của người nghe đàn bị đày đọa thì tiếng đàn của Xuân Diệu như là gam màu chủ quan của cái tôi trực cảm can thiệp:

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

Những điển tích nhân danh, địa danh dẫn ra trên đây là minh chứng cho phong cách mới lạ độc đáo của Xuân Diệu: kế thừa mạch nguồn thơ ca phương Đông, tiếp thu tinh hoa thơ phương Tây để vươn tới những giá trị mới mẻ, độc đáo. Nghệ thuật dụng điển đã chứng minh Xuân Diệu khước từ những khuôn sáo gò bó của thơ ca trung đại, nhanh chóng hòa vào quỹ đạo của thơ ca hiện đại. Với ngòi bút vừa phóng khoáng, bay bổng, lãng mạn lại vừa tài hoa, uyên bác, truyền tải cả hơi hướng Đông – Tây, Xuân Diệu đã mang tới cho phong trào Thơ Mới tiếng nói của thơ ca dân tộc giản dị mà sâu sắc. Và điều độc đáo ở chỗ, chính nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ Mới” lại là người chủ động vận dụng “cái cũ” nhất của thơ ca truyền thống là điển cố vào trong sáng tác của mình một cách hiệu quả. Đây là một trong những đặc điểm độc đáo trong phong cách thơ Xuân Diệu trước 1945 mà lâu nay chúng ta ít để ý.

NGUYỄN CÔNG TRÍ
Báo Giáo Dục & Thời Đại
 
Trân trọng những giá trị về quan niệm sáng tác văn chương, về nghệ thuật đương thời, ta thêm yêu từng vần thơ, con chữ kiêu bạc, phong sương không thể hoà lẫn với bất kì ai. Được đọc thơ ông quả là một điều hạnh phúc cho thế hệ ngày nay. Trước đây khi học bài thơ Vội vàng, mình có cảm giác được thổi vào luồng gió của sự sống cống hiến, bởi thời gian sẽ không chờ đợi một ai mà, phải nỗ lực hết sức thôi
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.