Thân Nhân Trung tự là Hầu Phủ, quê ở Yên Dũng, Bắc Giang, đỗ tiến sĩ, làm quan dưới thời Hồng Đức, có tài văn chương xuất chúng, trọng tài cao, từng được vua Lê Thánh Tông tin dùng, sắc phong làm quan. “Câu mở đầu cho ta biết Thân Nhân Trung được vua Lê Thánh Tông giao trọng trách lớn.
“Tôi dẫu nông cạn, vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà làm bài kí rằng …”.
Các tiến sĩ được khắc tên trên bia đá tại Văn Miếu đều là những người có tài, có học, có tài và có đức. Tác giả coi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” và khẳng định nguyên khí này có ý nghĩa quan trọng đối với sự hưng thịnh của đất nước.
Thân Nhân Trung là người xã Yên Ninh, nay thuộc Bắc Giang. Là một danh sĩ thời Hậu Lê. Ông đỗ tiến sĩ và làm quan dưới thời Hậu Lê, được triều đình trọng dụng. Ông có nhiều công sức trong việc tuyển chọn và đào tạo nhân tài. Ông từng là thành viên chủ chốt của Hội Tao Đàn. Ông sáng tác rất nhiều tác phẩm như: Thiên Nam dư hạ tập, Thân chinh ký sự, Văn bia Chiêu Lăng....
Tác phẩm Hiền tài là nguyên khí quốc gia ra đời khi ông nhận lệnh vua Lê Thánh Tông soạn bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba với mục đích khắc lên bia đặt trong văn miếu, khởi đầu cho việc dựng bia tiến sĩ sau này. Tác phẩm là một đoạn trích trong bài văn bia. Văn bia là loại văn khắc trên bia đá bao gồm nhiều thể loại khác nhau, phổ biến thời trung đại dùng để ghi chép những sự kiện quan trọng hoặc tên tuổi, sự nghiệp của những người có công đức. Nhiều tác phẩm văn bia là những áng văn nghị luận độc đáo, giàu hình tượng, mang nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn sâu sắc.
Ngay đầu tác phẩm, Thân Nhân Trung nêu cao tư tưởng trọng người có đức, có tài với sự khẳng định: hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Hiền tài có nghĩa là người học cao, có tài, có đức. Nguyên khí là những khí chất ban đầu để hình thành nên một quốc gia. Tác giả nêu lên vai trò quan trọng của hiền tài, đất nước có nhiều người tài giỏi sẽ góp phần phát triển đất nước, ngược lại đất nước không có người tài sẽ bị suy vong, người tài quyết định tới sự suy thịnh của một quốc gia, hiền tài chính là sự kết tinh của đất trời và hồn dân tộc.
Sau khi khẳng định vai trò của người tài, tác giả tiếp tục nêu cao việc chiêu mộ và đào tạo nhân tài là một việc rất quan trọng "vì vậy các đấng thánh đế minh chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài kén chọn kẻ sĩ vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên". Để luận điểm của mình thêm chặt chẽ Thân Nhân Trung viết "đã yêu mến cho khoa danh lại đỗ cao bằng tước trật. Ban ân lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên tháp ở Pháp Nhạn bạn cho danh hiệu Long hổ bày tiệc Văn hỉ", "triều đình mừng được người tài không có việc gì lắm đến mức cao nhất". Với những lời văn súc tích, tác giả đã làm nổi bật lên vai trò của bậc hiền tài. Tuy nhiên những đãi ngộ của triều đình đối với các bậc nhân tài theo tác giả như vậy vẫn chưa đủ đối với sự cống hiến cho đất nước. Tác giả cho rằng phải khắc tên lên bia đá cho các tiến sĩ để tên tuổi và công danh được lưu giữ hàng nghìn đời sau để xứng đáng với công sức họ đã cống hiến, đồng thời khích lệ những người tài trên khắp cả nước thấy được sự trọng dụng của triều đình mà ra sức cống hiến, xây dựng đất nước. "Nay thánh minh lại cho rằng chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy nhưng lời khen tiếng thơm chưa đủ để lưu vẻ vang lâu dài, cho nên dựng đá để danh đặt ở cửa Hiền quan khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ rèn luyện danh tiếng giúp vua. Há chỉ là chuộng văn suông ham tiếng hão mà thôi đâu". Đó là những đãi ngộ của triều đình, còn trách nhiệm của kẻ sĩ chốn lều tranh là phải "ra sức báo đáp" ân đức của vua, của triều đình.
Thân Nhân Trung ngợi ca các bậc hiền tài có đức độ "có người đã đem văn học, chính sự tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng" bên cạnh đó tác giả còn chỉ trích với những kẻ âm mưu hại nước "cũng không phải có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác". Ông tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc khắc bia tiến sĩ một lần nữa "có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn thấy tấm bia này. Vì thế hồi đó được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu ngăn chặn đâu còn dám nảy sinh như vậy được". Tác giả cho thấy lợi ích của việc khắc bia tiến sĩ là rất nhiều "kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Với lối liệt kê kết hợp giọng văn trang trọng, nối nói mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu khiến người đọc cảm thấy tác dụng to lớn của việc khắc bia tiến sĩ. Nhân tài nước ta không nhiều nhưng cũng không ít, việc để họ cống hiến hết mình, đem cái tài xây dựng đất nước thì triều đình cần có những chính sách chiêu mộ nhân tài, tránh để họ dùng cái tài của mình làm những việc xấu, ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia, dân tộc. Việc khắc bia sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức, trách nhiệm đối với sự hưng thịnh của đất nước.
Tác phẩm đã chỉ ra và khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nhân tài đối với đất nước. Đồng thời nêu nên những đãi ngộ mà đất nước dành cho người tài. Ca ngợi những tấm gương làm rạng danh đất nước, thể hiện sự tiếc nuối đối với những người có tài nhưng lại không biết vận dụng để làm việc tốt. Giọng văn rõ ràng, mạch lạc, giàu sức thuyết phục, ngôn từ dễ hiểu, xúc tích tất cả đã làm nổi bật lên được những giá trị mà tác giả muốn gửi gắm.
Đoạn trích là lời khuyến khích, động viên người tài ra giúp đời, giúp đất nước đồng thời cho thấy được cách nhìn, cách đánh giá đúng đắn, sáng suốt về vai trò của hiền tài đối với vận mệnh quốc gia. Tư tưởng ấy cũng chính là tư tưởng của vị vua Lê Thánh Tông. Trải qua bao thế kỉ, bao thăng trầm lịch sử nhưng tác phẩm vẫn giữ được những giá trị cho tới ngày nay.
“Tôi dẫu nông cạn, vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà làm bài kí rằng …”.
Các tiến sĩ được khắc tên trên bia đá tại Văn Miếu đều là những người có tài, có học, có tài và có đức. Tác giả coi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” và khẳng định nguyên khí này có ý nghĩa quan trọng đối với sự hưng thịnh của đất nước.
Thân Nhân Trung là người xã Yên Ninh, nay thuộc Bắc Giang. Là một danh sĩ thời Hậu Lê. Ông đỗ tiến sĩ và làm quan dưới thời Hậu Lê, được triều đình trọng dụng. Ông có nhiều công sức trong việc tuyển chọn và đào tạo nhân tài. Ông từng là thành viên chủ chốt của Hội Tao Đàn. Ông sáng tác rất nhiều tác phẩm như: Thiên Nam dư hạ tập, Thân chinh ký sự, Văn bia Chiêu Lăng....
Tác phẩm Hiền tài là nguyên khí quốc gia ra đời khi ông nhận lệnh vua Lê Thánh Tông soạn bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba với mục đích khắc lên bia đặt trong văn miếu, khởi đầu cho việc dựng bia tiến sĩ sau này. Tác phẩm là một đoạn trích trong bài văn bia. Văn bia là loại văn khắc trên bia đá bao gồm nhiều thể loại khác nhau, phổ biến thời trung đại dùng để ghi chép những sự kiện quan trọng hoặc tên tuổi, sự nghiệp của những người có công đức. Nhiều tác phẩm văn bia là những áng văn nghị luận độc đáo, giàu hình tượng, mang nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn sâu sắc.
Ngay đầu tác phẩm, Thân Nhân Trung nêu cao tư tưởng trọng người có đức, có tài với sự khẳng định: hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Hiền tài có nghĩa là người học cao, có tài, có đức. Nguyên khí là những khí chất ban đầu để hình thành nên một quốc gia. Tác giả nêu lên vai trò quan trọng của hiền tài, đất nước có nhiều người tài giỏi sẽ góp phần phát triển đất nước, ngược lại đất nước không có người tài sẽ bị suy vong, người tài quyết định tới sự suy thịnh của một quốc gia, hiền tài chính là sự kết tinh của đất trời và hồn dân tộc.
Sau khi khẳng định vai trò của người tài, tác giả tiếp tục nêu cao việc chiêu mộ và đào tạo nhân tài là một việc rất quan trọng "vì vậy các đấng thánh đế minh chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài kén chọn kẻ sĩ vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên". Để luận điểm của mình thêm chặt chẽ Thân Nhân Trung viết "đã yêu mến cho khoa danh lại đỗ cao bằng tước trật. Ban ân lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên tháp ở Pháp Nhạn bạn cho danh hiệu Long hổ bày tiệc Văn hỉ", "triều đình mừng được người tài không có việc gì lắm đến mức cao nhất". Với những lời văn súc tích, tác giả đã làm nổi bật lên vai trò của bậc hiền tài. Tuy nhiên những đãi ngộ của triều đình đối với các bậc nhân tài theo tác giả như vậy vẫn chưa đủ đối với sự cống hiến cho đất nước. Tác giả cho rằng phải khắc tên lên bia đá cho các tiến sĩ để tên tuổi và công danh được lưu giữ hàng nghìn đời sau để xứng đáng với công sức họ đã cống hiến, đồng thời khích lệ những người tài trên khắp cả nước thấy được sự trọng dụng của triều đình mà ra sức cống hiến, xây dựng đất nước. "Nay thánh minh lại cho rằng chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy nhưng lời khen tiếng thơm chưa đủ để lưu vẻ vang lâu dài, cho nên dựng đá để danh đặt ở cửa Hiền quan khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ rèn luyện danh tiếng giúp vua. Há chỉ là chuộng văn suông ham tiếng hão mà thôi đâu". Đó là những đãi ngộ của triều đình, còn trách nhiệm của kẻ sĩ chốn lều tranh là phải "ra sức báo đáp" ân đức của vua, của triều đình.
Thân Nhân Trung ngợi ca các bậc hiền tài có đức độ "có người đã đem văn học, chính sự tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng" bên cạnh đó tác giả còn chỉ trích với những kẻ âm mưu hại nước "cũng không phải có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác". Ông tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc khắc bia tiến sĩ một lần nữa "có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn thấy tấm bia này. Vì thế hồi đó được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu ngăn chặn đâu còn dám nảy sinh như vậy được". Tác giả cho thấy lợi ích của việc khắc bia tiến sĩ là rất nhiều "kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Với lối liệt kê kết hợp giọng văn trang trọng, nối nói mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu khiến người đọc cảm thấy tác dụng to lớn của việc khắc bia tiến sĩ. Nhân tài nước ta không nhiều nhưng cũng không ít, việc để họ cống hiến hết mình, đem cái tài xây dựng đất nước thì triều đình cần có những chính sách chiêu mộ nhân tài, tránh để họ dùng cái tài của mình làm những việc xấu, ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia, dân tộc. Việc khắc bia sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức, trách nhiệm đối với sự hưng thịnh của đất nước.
Tác phẩm đã chỉ ra và khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nhân tài đối với đất nước. Đồng thời nêu nên những đãi ngộ mà đất nước dành cho người tài. Ca ngợi những tấm gương làm rạng danh đất nước, thể hiện sự tiếc nuối đối với những người có tài nhưng lại không biết vận dụng để làm việc tốt. Giọng văn rõ ràng, mạch lạc, giàu sức thuyết phục, ngôn từ dễ hiểu, xúc tích tất cả đã làm nổi bật lên được những giá trị mà tác giả muốn gửi gắm.
Đoạn trích là lời khuyến khích, động viên người tài ra giúp đời, giúp đất nước đồng thời cho thấy được cách nhìn, cách đánh giá đúng đắn, sáng suốt về vai trò của hiền tài đối với vận mệnh quốc gia. Tư tưởng ấy cũng chính là tư tưởng của vị vua Lê Thánh Tông. Trải qua bao thế kỉ, bao thăng trầm lịch sử nhưng tác phẩm vẫn giữ được những giá trị cho tới ngày nay.